Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12
Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12 Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Dạy văn nói chung, dạy phân môn giảng văn (phần truyện) nói riêng ở trường THPT là dạy cho các em học sinh biết tìm tòi, khám phá ra thế giới văn chương nghệ thuật. Làm thế nào để giáo viên giúp học sinh đồng cảm với những giá trị tư tưởng nhân văn cần đạt tới trong mỗi tác phẩm là nhiệm vụ giảng dạy của GV dạy Ngữ Văn. Lep- Tôn-xTôi nói : “Vấn đề không phải biết là quả đất tròn mà là làm thế nào để biết được quả đất tròn?”. Chân lí là quý báu! Nhưng cách tìm ra chân lí còn quý hơn nhiều. Vì thế, cái khó trong việc dạy văn, nhất là dạy tác phẩm truyện là làm sao hướng cho học sinh tìm ra cái hay, cái đẹp trong các tác phẩm. Thực trạng trong những năm gần đây, học sinh khi cảm thụ về tác phẩm truyện thường khô cứng, sáo rỗng, lúng túng và máy móc. Rất ít học sinh chịu khó tìm tòi, khám phá ra các ý mới, ý riêng, ý sâu sắc, ý hay do chính bản thân các em cảm nhận. Trong chương trình Ngữ văn ở trường phổ thông, tác phẩm truyện ngắn chiếm một số lượng khá lớn. Điều này phản ánh đúng mối tương quan của thành tựu truyện ngắn so với những thể loại văn xuôi khác trong đời sống văn học của chúng ta. Kiến thức tác phẩm truyện trong chương trình Ngữ văn THPT. được đưa vào giảng dạy một cách có hệ thống. Những tác phẩm truyện đặc sắc, có giá trị được chọn lọc đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ Văn THPT đem lại hứng thú cho giáo viên và học sinh, có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao nhận thức thực tiễn, giúp học sinh có thêm kiến thức, hiểu biết thêm về đời sống xã hội và con người. Một trong những vấn đề gây khó khăn không nhỏ cho thầy và trò của chương trình Ngữ văn ở trường phổ thông là tiếp nhận, cảm thụ các tác phẩm truyện. Do đặc trưng của thể loại truyện khác với các văn bản thơ trữ tình nên khi cảm thụ, đọc – hiểu văn bản truyện học sinh thường tỏ ra lúng túng. Tiếp nhận tác phẩm truyện đòi hỏi không chỉ có khả năng tư duy lo gich mà cả khả năng tư duy trừu tượng. Vì vậy cảm thụ các tác phẩm truyện quả là khó khăn và đầy thách thức đối với cả giáo viên lẫn học sinh. Về phía học sinh, các em chưa có thói quen chủ động tìm hiểu khám phá tác phẩm, trong khi một số tác phẩm truyện trong SGK Ngữ văn THPT chỉ là đoạn trích mà muốn đọc – hiểu và cảm thụ hiệu quả buộc phải đặt trong hệ thống toàn văn bản. Đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, ngành giáo dục đã từng bước tiến hành cải cách giáo dục, đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy ở các cấp học phù hợp với mục tiêu giáo dục, đào tạo. Trong xu hướng chung ấy, tại hội nghị chuyên môn Ngữ văn được tổ chức hàng năm, chúng ta đã trao đổi, bàn luận, rút kinh nghiệm về đổi mới phương pháp dạy học, nhằm nâng cao hứng thú học tập cho học sinh. Trong bài viết này, chúng tôi xin nêu ra một số ý kiến cùng trao đổi với quý đồng nghiệp về vấn đề hướng dẫn học sinh cảm thụ tác phẩm truyện trong chương trình Ngữ văn THPT. Vấn đề là cần có những phương pháp đọc – hiểu phù hợp khắc phục được những khó khăn, hạn chế trước mắt để tiết học đạt hiệu quả giáo dục cao. Trên cơ sở đó, xin đưa ra một số ý kiến để chúng ta cùng bàn bạc, trao đổi tìm ra phương hướng giải quyết vấn đề. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Qua việc nghiên cứu để viết sáng kiến kinh nghiệm cảm thụ tác phẩm truyện trong chương trình Ngữ văn THPT., chúng tôi muốn trao đổi với đồng nghiệp về phương pháp tạo hứng thú cho HS trong mỗi giờ Đọc văn (phần truyện), từng bước 1 Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12 tế cho học sinh. Với quan niệm như trên về cảm thụ, chúng tôi nhận thấy việc xác lập các biện pháp rèn luyện cách cảm thụ cho học sinh khi dạy tác phẩm truyện ở trường phổ thông có ý nghĩa quan trọng. Theo chúng tôi, cảm thụ tác phẩm truyện là cơ sở để xác lập các biện pháp bộc lộ và thúc đẩy sự đồng sáng tạo của người đọc. Do đó, phần đề xuất các biện pháp của chúng tôi khác về nội dung của từng biện pháp. Cũng không là tiến trình của một tiết dạy trên lớp 2. Cơ sở thực tiễn: Luận ngữ viết: “ Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bằng say mà học”. Vậy niềm yêu thích say mê chính là động lực thúc đẩy, nuôi dưỡng sự cố gắng, nỗ lực học tập không ngừng của mỗi người. Vì thế với vai trò tổ chức, hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập của HS, hơn ai hết việc phải tìm ra nhiều biện pháp để phát huy cao nhất tính tích cực sáng tạo của người học, gây niềm hứng thú say mê học tập ở các em chính là nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi GV. Nhưng phải thừa nhận một thực tế rằng trong thời kì đất nước đang chuyển mình hội nhập, bên cạnh rất nhiều mặt tích cực thì cũng nảy sinh không ít những khó khăn thách thức. Theo đó, hiện nay đa số phụ huynh chỉ định hướng cho con em mình lựa chọn các môn học tự nhiên. Chính điều này đã tác động không nhỏ đến tâm lí HS, làm giảm niềm yêu thích hứng thú của các em với môn Ngữ văn. Càng học lên lớp trên, các em càng chán học môn Ngữ văn. Đứng trước bối cảnh đó, bên cạnh việc trau dồi nâng cao năng lực chuyên môn vững vàng, Người GV dạy Ngữ văn cần thiết phải có nghệ thuật đứng lớp cao hơn, linh hoạt hơn mới có thể tạo được niềm hứng thú cho HS. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng HS THPT không hứng thú trong giờ học Đọc văn (phần truyện), theo tôi có những nguyên nhân cơ bản sau: - Về chương trình có một số điều bất cập. Thiết kế chương trình chưa thật hợp lý. Có nhiều tác phẩm lượng kiến thức cần khai thác rất lớn như Hạnh phúc một tang gia - Vũ Trọng Phụng, Chí Phèo - Nam Cao, hay các tác phẩm văn xuôi (phần truyện) trong chương trình Ngữ văn lớp 12 thời lượng phân phối lại rất ít (2 tiết/bài), GV chỉ lo dạy không kịp bài thì làm sao tạo được hứng thú cho HS. - Về phía GV: Trong những năm gần đây, ngành luôn đề cao việc đổi mới phương pháp dạy học, nhưng thật sự việc đổi mới ở các GV dạy Ngữ văn còn gặp khá nhiều khó khăn, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy cũng chưa đạt được kết quả mong muốn. Do vậy, ngoài các tiết dự thi, thao giảng, dạy tốt, thanh tra, đa phần tiết dạy Ngữ văn là tiết "dạy chay", thầy vẫn giữ phương pháp cũ là thuyết giảng. Chính điều đó đã làm giảm rất nhiều sự hào hứng, sáng tạo của HS. Một nguyên nhân nữa xuất phát từ trình độ chuyên môn của GV, nhất là đa số những GV mới ra trường, mỗi khi lên lớp chưa thật làm chủ kiên thức, chỉ lo làm sao truyền thụ hết những gì đã soạn từ giáo án đã thấy khó, nói chi đến việc mở rộng, nâng cao, kích thích sự hứng thú của HS. - Về phía HS: Môn Ngữ văn là một môn học khó, mang tính đặc thù. Trong mỗi giờ học Đọc văn (phần truyện), HS phải phát huy trí tưởng tượng sáng tạo, năng lực cảm thụ thì mới có thể hiểu được những tầng nghĩa sâu xa của tác phẩm - Yêu cầu này, đâu phải HS nào cũng có đủ khả năng. Hơn nữa, đa phần HS hiện nay đã quen với lối học thụ động, đi thi thì cũng chỉ chép lại lời thầy, bởi các em có tâm lí nếu làm khác đi chưa chắc gì thầy đã cho điểm cao, do vậy cũng chẳng muốn bộc lộ suy nghĩ cảm thụ riêng của bản thân làm gì. Có rất nhiều nguyên nhân để lý giải hiện tượng nêu trên, nhưng theo chúng tôi, làm thế nào để nâng cao cảm thụ tác phẩm truyện cho học sinh trong giờ 3 Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12 Khi dẫn nhập trong dạy học, nếu giáo viên vận dụng đúng mức phương pháp trích dẫn danh ngôn, sẽ khiến ngôn ngữ có sức mạnh hơn hẳn những lời nói tản mản, vụn vặt. Có một số tục ngữ, thành ngữ có thể phát huy được những khả năng không ngờ, kích thích trí tưởng tượng của học sinh – và như thế người dạy vừa truyền đạt được kiến thức, vừa rèn luyện khả năng tiếp thu ở các em. Dẫn nhập như thế sẽ thu hút sự chú ý của các em ngay từ đầu tiết học, hứa hẹn một tiết dạy hấp dẫn, sôi nổi. 3.2 Kết hợp thực tế Kết hợp thực tế có nghĩa là kết hợp giữa thực tế học tập – cuộc sống – xã hội. Kết hợp thực tế sẽ giúp cho hoạt động dạy học thiết thực hơn, gần gũi hơn. Vừa làm phong phú nội dung dạy học, vừa phát huy tính tích cực ở học sinh và tính chỉ dẫn của người dạy. Ví dụ: Bài Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu [trang 69, Ngữ Văn 12- tập 2] - GV: Nền kinh tế càng phát triển sẽ kéo theo nhiều sự đổi thay trong cuộc sống. Và một trong những vấn đề đó là sự suy đồi về đạo đức, xuống cấp trầm trọng của các mối quan hệ vợ - chồng, cha – con, anh – em, Vậy, trong đời thường, đã bao giờ các em chứng kiến cảnh một người chống vũ phu đánh vợ? Một đứa con bất chấp đạo lí đánh lại cha không? Đúng vậy. Thực trạng đau lòng đó đã được Nguyễn Minh Châu khám phá trong bình diện của nền văn học mới – bình diện đạo đức thế sự thông qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa. Do yêu cầu về mặt thời gian của phương pháp dẫn nhập phải ngắn gọn, giản dị dễ hiểu nhưng phải đầy đủ mang tính thuyết phục cao, tránh dài dòng làm phân tán sự chú ý của học sinh. Mẫu dạy này hết sức hiệu quả. Chỉ trong thời gian ngắn, giáo viên đã đặt học sinh vào tình thế “phán – xử”, vừa là người thách thức, vừa lấy chính mình để đi tìm câu trả lời. 3.3 Nêu câu hỏi (Nêu ra nghi vấn) Nội dung câu hỏi có thể nêu ra từ những mặt khác nhau, góc độ khác nhau nhưng chỉ cần phù hợp với nội dung bài học là được. Đây là phương pháp dẫn nhập đơn giản được sử dụng rất phổ biến trong quá trình giảng dạy. Tuy nhiên, khi giáo viên nêu câu hỏi cần lưu ý đó là những kiến thức quen thuộc với học sinh, đáp án đưa ra là duy nhất. Có như thế khi giải đáp thắc mắc sẽ có tính nhất quán và mục đích dẫn tới bài học sẽ hoàn hảo. 3.4 Sử dụng tranh ảnh minh họa Sử dụng tranh ảnh minh họa học sinh sẽ có được những cảm nhận mới mẻ khi tiếp cận văn bản. Đây là một biện pháp hỗ trợ dạy học không thể thiếu trong giảng dạy nói chung. Biện pháp này có thể thay cho lời dẫn để tạo cảm giác chân thực, tăng thêm tính rõ ràng, tính sinh động khi thuyết giảng. Ví dụ: Bài tùy bút: Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân [trang 185, Ngữ Văn 12- tập 1] - GV: (cho học sinh xem hình ảnh của con sông Đà – chú ý chọn hình ảnh con sông vừa hung bạo vừa trữ tình). Sau đó, để học sinh tự phát hiện vẻ đẹp của con sông rồi giáo viên dẫn vào bài mới. - GV: Nếu như sông Hương được ví như người con gái của Huế, đẹp cổ kính trầm mặc thì sông Đà lại mang một vẻ đẹp “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc Bắc lưu”. Chúng ta cùng đi vào tìm hiểu nội dung bài học để thấy được vẻ đẹp của con sông vừa hung bạo vừa trữ tình. 5 Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12 thêm sự thu hút mạnh mẽ ở học sinh. Có thể tạo cho học sinh một ấn tượng tổng thể, khắc sâu hơn nhận thức của học sinh. 3.6 Thảo luận có chủ đề Phương pháp dẫn nhập thảo luận có chủ đề là lúc giáo viên vừa bước vào lớp, đúng lúc học sinh đang chờ đợi giáo viên giảng bài; hoặc khi lớp chưa ổn định, chưa chú ý thì lúc này giáo viên có thể áp dụng. Ví dụ: Bài Vợ nhặt - Kim Lân [trang 23, Ngữ Văn 12 - tập 2] - GV: Vợ nhặt là tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Kim Lân sau CM.T.Tám. Vậy nhan đề Vợ nhặt cho chúng ta liên tưởng đến những ý nghĩa nào? Chúng ta có thể hiểu như thế nào? - HS trả lời: Vợ nhặt có nghĩa là người ta nhặt được ở ngoài đường hơặc ở đâu đó như một vật vô chủ... có nghĩa là bất kì ai cũng có thể nhặt được. Người vợ mất hết cả giá trị đáng quí = người theo không....giá trị con người bị rẻ rúng như rơm rác, có thể nhặt được ở bất kì đâu,.... - GV: Đó đều là những ý kiến làm cơ sở để chúng ta xây dựng nội dung bài học này. Vợ nhặt có ý nghĩa gì – chúng ta cùng phân tích bài học. Cách dẫn nhập ở trên, học sinh thông qua thảo luận bước đầu vạch ra được tư tưởng của tác giả muốn truyền đạt, giúp học sinh nhìn thấy được “đốt sống” của tác phẩm văn học. Điều này cung cấp tiền đề và trải đệm cho việc giảng dạy được thuận lợi hơn. 4. Hiệu quả mang lại Khi xác định được trọng tâm dạy – học như vậy, kết hợp với việc áp dụng 6 biện pháp dẫn nhập như trên. Bước đầu, cả người dạy và người học khi bắt đầu một tiết học đã phá bỏ được sự nhàm chán, uể oải khi tiếp cận văn bản. Giáo viên truyền được niềm đam mê và hứng thú học tập cho HS. Đây được xem như một bước khởi sắc của việc dạy học Ngữ Văn. II. Đọc diễn cảm và tóm tắt tác phẩm: 1. Đọc diễn cảm: Cùng quan điểm với GS Trần Đình Sử, cố GS Hoàng Ngọc Hiến nhấn mạnh yêu cầu cần đạt được của việc đọc văn bản là phải nắm bắt trúng giọng điệu của tác phẩm. Theo ông, “Sự phong phú, tính đa nghĩa, ý vị đậm đà của bài văn trước hết là ở giọng. Năng khiếu văn là năng lực bắt được trúng cái giọng của văn bản mình. Bắt được giọng đã khó, làm cho học sinh cảm nhận được cái giọng càng khó, công việc này đòi hỏi sáng kiến và tài tình của giáo viên” Năng lực văn nhất thiết phải bao hàm năng lực đọc diễn cảm, không tìm được ngữ điệu thích đáng trong giảng bài, đó là sự bất lực của người dạy văn. Có nhiều giáo viên có kiến thức, nhưng khi giảng bài, học sinh thấy chán, buồn ngủ, bởi vì giáo viên đó thiếu khẩu khí, thiếu hơi văn, chưa tìm được ngữ điệu, giọng điệu thích đáng cho mình. Như vậy, người dạy văn giỏi, ngoài kiến thức cần phải có ngữ điệu, giọng điệu phù hợp, đa dạng. Có như vậy tác phẩm mới tác động sâu vào cảm nhận của học sinh. Và đây là một phần quan trọng để phát huy tiềm lực, kích thích hứng thú học văn của học sinh. Ngữ điệu và giọng điệu trong dạy học môn văn trước hết được thể hiện ở khả năng đọc diễn cảm và ngữ điệu giảng bài của giáo viên. Vậy đọc diễn cảm là gì? Ngoài việc đọc đúng quy tắc ngữ pháp, đúng đặc trưng thể 7
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_ren_ky_nang_lam_van_nghi_luan_ve_tac_p.doc