Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả học tập môn Toán cho học sinh lớp 12 thông qua việc bồi dưỡng năng lực tự học

pdf 62 trang sk12 25/10/2024 330
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả học tập môn Toán cho học sinh lớp 12 thông qua việc bồi dưỡng năng lực tự học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả học tập môn Toán cho học sinh lớp 12 thông qua việc bồi dưỡng năng lực tự học

Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả học tập môn Toán cho học sinh lớp 12 thông qua việc bồi dưỡng năng lực tự học
 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN 
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỌC TẬP MÔN TOÁN CHO HỌC SINH 
LỚP 12 THÔNG QUA VIỆC BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC TỰ HỌC 
 LĨNH VỰC: TOÁN HỌC 
 Năm thực hiện: 2021- 2022 
 1 
Mục lục Trang 
PHẦN 1. PHẦN MỞ ĐẦU 
1. Lí do chọn đề tài 4 
2. Mục đích nghiên cứu 
3. Phạm vi nghiên cứu 
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 
5. Phương pháp nghiên cứu 
PHẦN 2. NỘI DUNG 
 CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT 
ĐỘNG BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH LỚP 
12 Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 
1.1. Hoạt động bồi dưỡng năng lực tự học 
1.2. Cơ sở thực tiễn và thực trạng của vấn đề nghiên cứu 
CHƢƠNG 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC TỰ 
HỌC CHO HỌC SINH LỚP 12 
2.1. Biện pháp 1: Truyền cảm hứng, tạo niềm đam mê học tập môn Toán 
cho học sinh để tạo động lực cho các em lòng ham muốn tự học 
2.2.Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh thực hành tự học theo nhóm, từ đó 
tập dượt cho học sinh bước đầu tiếp cận với nghiên cứu khoa học 
2.3. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh tự học bằng một số kỹ thuật dạy 
học tích cực 
2.4. Biện pháp 4: Hướng dẫn học sinh thực hành tự học theo nhóm thông 
qua các chủ đề Stem. 
2.5. Biện pháp 5: Sử dụng các phương pháp kiểm tra đánh giá để kiểm tra 
và kích thích việc tự học của học sinh. 
PHẦN 3.KẾT LUẬN 
1. Đóng góp của đề tài 
2. Kiến nghị 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
PHỤ LỤC 
 3 
dưỡng phương pháp tự học đúng đắn thì sẽ tạo động lực giúp các em học tập chăm 
chỉ, tiến bộ, phát huy được tính sáng tạo và khả năng tự học hiệu quả, góp phần 
phát triển phẩm chất năng lực, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Môn 
Toán là công cụ đắc lực hỗ trợ nhiều môn học khác, nếu có khả năng tự học tốt 
môn toán thì sẽ tự học được các môn học khác nữa, từ đó góp phần nâng cao chất 
lượng giáo dục toàn diện. 
 Như vậy, bồi dưỡng năng lực tự học môn toán là cần thiết đối với mọi cấp 
học và nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các em lớp 12. Tuy nhiên, thực tế 
cho thấy vấn đề tự học toán của học sinh hiện nay còn nhiều bất cập. Một bộ phận 
học sinh chưa ý thức được việc tự học, lười học, học một cách thụ động, chỉ cố 
gắng hoàn thành bài tập mà giáo viên giao mà chưa biết cách hệ thống kiến thức và 
tìm hiểu, khám phá những điều liên quan. Từ những kinh nghiệm của bản thân 
cùng với sự nghiên cứu tài liệu và học hỏi đồng nghiệp, tôi lựa chọn đề tài “ Nâng 
cao hiệu quả học tập môn toán cho học sinh lớp 12 thông qua việc bồi dưỡng 
năng lực tự học” nhằm phát triển năng lực cho học sinh, đáp ứng yêu cầu của 
chương trình giáo dục phổ thông mới. 
 2. Mục đích nghiên cứu 
Phát triển năng lực cho học sinh THPT đáp ứng yêu cầu của chương trình giáo dục 
phổ thông mới. 
 3. Phạm vi nghiên cứu 
 Vai trò, cách thức tổ chức hướng dẫn học sinh lớp 12 tự học môn toán trong 
quá trình dạy học. 
 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 
 Đề tài tập trung làm rõ một số vấn đề sau: 
 - Thực trạng tự học môn toán của học sinh lớp 12 ở các trường THPT tại 
Yên Thành. 
 - Đề xuất cách thức tổ chức hướng dẫn học sinh lớp 12 tự học môn toán 
trong quá trình dạy học nhằm bồi dưỡng, phát triển năng lực tự học cho học sinh, 
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của học sinh. 
 5. Phương pháp nghiên cứu 
 - Nghiên cứu lý luận: 
 Nghiên cứu, phân tích và tổng hợp các tài liệu giáo dục học, tâm lý học, các 
tạp chí, sách, báo, đặc san tham khảo có liên quan tới vấn đề nghiên cứu. 
 5 
đào tạo, nâng cao kết quả thi tốt nghiệp và xét tuyển vào Đại học . Đổi mới phương 
pháp dạy học theo hướng tích cực hóa người học sẽ phát huy tính tích cực, tự giác, 
chủ động, sáng tạo của người học trong việc lĩnh hội tri thức khoa học. Vì vậy, tự 
học chính là con đường phát triển phù hợp với quy luật tiến hóa của nhân loại và là 
biện pháp sư phạm đúng đắn cần được phát huy ở các trường phổ thông . 
Theo phương châm học suốt đời “ Học, học nữa, học mãi” thì việc “tự học” lại 
càng có ý nghĩa đặc biệt đối với học sinh trung học phổ thông. Vì nếu không có 
khả năng và phương pháp tự học, tự nghiên cứu thì khi lên đến các bậc học cao 
hơn như cao đ ng, đại học, sau đại học, học sinh sẽ khó thích ứng do đó khó có 
thể thu được một kết quả học tập và nghiên cứu tốt. Hơn thế nữa, nếu không có khả 
năng tự học thì chúng ta không thể đáp ứng được phương châm “Học suốt đời” mà 
Hội đồng quốc tế về giáo dục đã đề ra vào tháng 4 năm 1996. 
 1.1.3. Năng lực tự học 
Năng lực tự học nói chung là khả năng xác định được nhiệm vụ học tập một cách 
tự giác, chủ động; tự đặt được mục tiêu học tập để đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu thực 
hiện; thực hiện các phương pháp học tập hiệu quả; điều chỉnh những sai sót, hạn 
chế của bản thân khi thực hiện các nhiệm vụ học tập thông qua tự đánh giá hoặc lời 
góp ý của giáo viên, bạn bè; chủ động tìm kiếm sự hỗ trợ khi gặp khó khăn trong 
học tập. 
Năng lực tự học của học sinh phổ thông là khả năng học sinh lập được kế hoạch tự 
học một cách khoa học, thực hiện có hiệu quả kế hoạch tự học đã lập, tự đánh giá 
kết quả đạt được và điều chỉnh quá trình tự học có sự hỗ trợ của giáo viên. 
1.1.4. Quá trình tự học 
Quá trình tự học của học sinh thường được diễn ra qua các bước: Tự nghiên cứu, 
tự thể hiện, tự điều chỉnh và vận dụng. 
Giai đoạn 1: Tự nghiên cứu 
Ở giai đoạn này, bước đầu tiên là học sinh cần xác định được mục tiêu học tập, nội 
dung học tập và lên kế hoạch tự học. Tiếp đó là các em cần xác định kiến thức, kỹ 
năng cơ bản thuộc mỗi nội dung hay chủ đề, xem kiến thức nào là quan trọng, cốt 
lõi. Sau đó, học sinh phải biết hệ thống hóa kiến thức, biết xác định mối quan hệ 
giữa kiến thức, kỹ năng mới thu nhận với kiến thức và kỹ năng đã có để hợp thành 
một thể thống nhất, dễ dàng huy động khi cần. 
Giai đoạn 2: Tự thể hiện và hợp tác 
Những kiến thức tự học ở giai đoạn 1 tuy có hệ thống nhưng còn mang tính chủ 
quan, khó mà phát hiện ra được những nhầm lẫn, sai sót. Do đó, cần qua giai đoạn 
2 để chuyển những kiến thức, kỹ năng mang tính chủ quan thành khách quan, thực 
hiện qua các bước: 
 7 
học, tự thể hiện. Cách làm này được tôi sử dụng để học sinh tập dượt, nghiên cứu 
các chuyên đề ôn thi đại học. 
 c) Nhóm phản biện 
Đây là hình thức hoạt động nhóm trong đó các nhóm tham gia đánh giá, nhận xét, 
phản biện lẫn nhau nhằm mục tiêu hoàn thiện kiến thức. 
 d) Nhóm ngoài lớp 
Hình thức này thường được sử dụng đối với dạy học dự án. Mục đích là rèn luyện 
cho học sinh nhiều kỹ năng như kỹ năng hợp tác, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng trình 
bày, tìm kiếm thông tin,... 
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 
 Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã định hướng những phẩm chất và năng 
lực cần có của học sinhTHPT như sau: 
 Như vậy, các năng lực mà môn Toán hướng đến hình thành cho học sinh là 
Năng lực tự học; Năng lực giải quyết vấn đề; Năng lực sáng tạo; Năng lực giao 
tiếp; Năng lực hợp tác; Năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Từ 
 9 
Có quan tâm nhưng ít 90 30.0% 
Hầu như không quan tâm 50 16.7% 
 Dường như các em HS đa số đã biết quan tâm, coi trọng vấn đề tự học. Bên 
cạnh đó cũng còn nhiều em thờ ơ, lơ là với việc này. 
Câu hỏi 2. Em tự học ở nhà nhƣ thế nào? Số ý kiến trả Tỉ lệ % 
 lời 
Chủ yếu tự mày mò, học hỏi bạn bè cách tự học, ít 70 23.3% 
nhận đươc sự hướng dẫn của giáo viên. 
Áp dụng các phương pháp tự học theo hướng dẫn của 60 20.0% 
giáo viên để phát huy năng lực của cá nhân 
Phụ thuộc vào việc dạy học trên lớp và học thêm, gần 170 56.7% 
như không có năng lực tự học 
 Như vậy có thể thấy vấn đề nâng cao năng lực tự học cho HS vẫn chưa được 
chú trọng và quan tâm đúng mức. Các em rất cần một sự hướng dẫn, định hướng 
sát sao, rõ ràng. 
 11 
bài toán (biện luận, chia thành nhiều trường hợp, ) chính là độ phức tạp của tình 
huống đòi hỏi bộ não phải xử lý. 
 Do đó cái còn lại sau nhiều năm vất vả học toán không phải chỉ là những công 
thức, quy tắc, mà quan trọng còn là c ch suy ngh , c ch giải quyết vấn đề, hả 
n ng to n học ho c c t nh hu ng của cuộc s ng. 
 - Tạo cảm xúc 
 Các em thử nhớ lại xem: Từ lúc bắt đầu làm quen với môn toán từ những 
ngày còn học mẫu giáo đến nay, chắc ai cũng có hơn một lần "reo lên" khi tự mình 
giải được bài toán khó, tìm thêm được cách giải khác cho bài toán, đúng không? 
Lúc đó cảm xúc của chúng ta thật tuyệt vời. Đôi khi đó còn là một kỉ niệm đẹp, 
một bước ngoặt trong cuộc đời nữa. Nhà toán học người Pháp Xi-mông Poát-xông 
(1781-1840), lúc nhỏ là một học sinh rất sợ toán. Sau, vì giải được bài toán "Chia 
sữa", ông trở nên say mê học toán, nghiên cứu toán và đã trở thành một nhà toán 
học lỗi lạc. Hay như nhà toán học Vla-đi-mia Ắc-nôn (1937-2010), một trong 
những nhà toán học vĩ đại nhất của nước Nga thế kỉ XX, kể lại rằng lúc còn học ở 
tiểu học, ông được thầy giáo cho giải bài toán về chuyển động của hai bà lão. Ắc-
nôn còn nhớ: "Suy nghĩ tìm cách giải bài toán, lần đầu tiên tôi cảm nhận được 
niềm vui sáng tạo. Và chính ước vọng có được niềm vui như vậy đã giúp tôi trở 
thành nhà toán học”. 
 Những câu chuyện, những dòng thơ trên chính là những "cảm xúc" mà toán 
học mang lại, nó làm cho cuộc sống thi vị hơn, giúp chúng ta thành công hơn. 
 - Phát triển phẩm chất, năng lực 
 Đây chính là điều mà chương trình GPPT 2018 đang hướng tới. Khi các em 
đã có phương pháp học toán tốt thì sẽ không chấp nhận việc lập luận hời hợt, tư 
duy lộn xộn. Học toán mang lại cho ta những điều tuyệt vời như: 
 - Suy nghĩ mạch lạc. 
 - Làm chủ những ý tưởng chính xác và phức tạp. 
 - Lập luận dễ hiểu những vấn đề phức tạp. 
 - Trình bày một giải pháp rõ ràng, đưa ra những giả định rõ ràng. 
 - Linh hoạt và tiếp cận cùng một vấn đề bằng nhiều quan điểm khác nhau. 
 Thông qua đó góp phần hình thành các phẩm chất ( yêu nước, nhân ái, chăm 
chỉ, trung thực, trách nhiệm) và các năng lực ( tự chủ và tự học, giao tiếp và hợp 
tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo). 
 Từ các lợi ích trên, có thể kh ng định rằng "học toán nhiều là không phí", 
thậm chí rất nhiều người còn học toán đến hết đời với một niềm yêu thích. Trước 
khi ngừng thở, Poát-xông đã nói câu bất hủ: “Nếu được sống thêm cuộc đời nữa, 
tôi sẽ lại làm toán”. 
 13 

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_hieu_qua_hoc_tap_mon_toan_cho.pdf