Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho học sinh lớp 12 thông qua đoạn trích “Vợ nhặt” (Kim Lân)

doc 29 trang sk12 22/11/2024 200
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho học sinh lớp 12 thông qua đoạn trích “Vợ nhặt” (Kim Lân)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho học sinh lớp 12 thông qua đoạn trích “Vợ nhặt” (Kim Lân)

Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho học sinh lớp 12 thông qua đoạn trích “Vợ nhặt” (Kim Lân)
 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
 TRƯỜNG THPT YÊN ĐỊNH 3
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ BỒI DƯỠNG PHẨM CHẤT 
 ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH LỚP 12 THÔNG QUA 
 TÁC PHẨM “VỢ NHẶT” (KIM LÂN).
 Người thực hiện : Lê Thị Thanh Hương
 Chức vụ : Giáo viên 
 SKKN thuộc môn : Ngữ văn
 THANH HOÁ NĂM 2017
 1 1. PHẦN MỞ ĐẦU
 1.1. Lí do chọn đề tài:
 - Từ vị trí của bộ môn văn trong cấp học THPT hiện nay:
 Ngữ văn được xem là môn khoa học cơ bản có tác dụng to lớn trong việc 
giáo dục ý thức, đạo lý làm người, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, tình cảm thẩm 
mỹ cho học sinh. “Đây vừa là bộ môn khoa học, vừa là bộ môn nghệ thuật” [4]. 
Người học văn phải đáp ứng hai yêu cầu: trang bị kiến thức và hoàn thiện nhân 
cách. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Có tài mà không có đức thì là người 
vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Như vậy, trong một 
con người “tài” và “đức” phải luôn song hành với nhau. Đây là hai phạm trù 
khác nhau nhưng giữa chúng có mối liên hệ biện chứng với nhau. Trong mỗi 
con người cái “tài”, cái “đức” không phải ngẫu nhiên mà có, mà hai chữ ấy 
phải được vun đắp, trao dồi và phải được giáo dục ngay từ tấm bé. Việc dạy chữ 
(dạy cái tài) và dạy người (dạy cái đức) phải luôn luôn đi song song với nhau, 
không được xem nhẹ hay buông bỏ một trong hai mặt ấy. Có như vậy con người 
mới phát triển toàn diện được” [3]. Tuy nhiên, xã hội ngày nay đang tiến dần 
xa hơn tới xu hướng xem trọng kiến thức mà quên đi những giá trị quan trọng về 
đạo đức con người. 
 Trong những năm gần đây, việc học sinh không mấy mặn mà với bộ môn 
Ngữ văn là điều không hiếm. Người giáo viên dạy văn ngoài trang bị đầy đủ 
kiến thức cho học sinh thì chưa đủ. Thêm vào đó, người dạy văn cần phải khắc 
sâu những bài học đạo đức, giá trị làm người mà tác phẩm đề cập thì đó mới là 
điều chúng ta cần bàn. Xã hội hiện nay càng phát triển bao nhiêu thì nhân cách 
đạo đức của học sinh càng sa sút bấy nhiêu. Để mỗi cá nhân hoàn thiện nhân 
cách, hướng tới xây dựng một xã hội sống đúng đạo lý, hợp tình người thì phải 
bắt đầu từ người thầy dạy văn.
 - Từ thực tế nhận thức về hành vi đạo đức ở học sinh:
 Cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin và xu hướng phát triển 
của xã hội, hành vi đạo đức và sự nhận thức về bản thân ở học sinh có 
chiều hướng đi xuống. Điều này, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác 
nhau. Trong thời gian gần đây, có nhiều cá nhân có những hành vi lệch 
chuẩn, thậm chí là băng hoại về đạo đức. Đau đớn hơn, nó lại xuất hiện khá 
nhiều ở lứa tuổi học sinh THPT. Với tâm lí thích thể hiện và khẳng định 
mình, không ít những cá nhân đã gây ra những tổn thương không nhỏ cho 
bản thân, gia đình và xã hội. Bởi vậy, tôi thiết nghĩ việc giáo dục nhân 
cách cho học sinh thông qua mỗi bài học là điều vô cùng cần thiết.
 - Từ thực tế của việc học tập bộ môn: 
 Do xu hướng phát triển chung của xã hội, bộ môn Ngữ văn ngày càng ít được 
học sinh quan tâm. Đa phần, các em lựa chọn những môn học khối A, B, D để 
có hướng mở trong tương lai. Có những giờ dạy văn kém hiệu quả, không chỉ 
chưa đáp ứng đủ kiến thức cho học sinh mà còn xem nhẹ giá trị giáo dục rút ra 
từ tác phẩm. Việc cung cấp đủ kiến thức cho học sinh chỉ mới đáp ứng một nửa 
 3 1/3 học sinh có nhu cầu thực sự - Học khá đều các môn
 1/3 học để theo khối - Học lực trung bình 
 1/3 không thể học các khối khác - Học yếu, ý thức kém
 1.3.2. Phạm vi áp dụng
 Đề tài được áp dụng vào việc: Bồi dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho 
học sinh.
 1.3.3. Tài liệu nghiên cứu: SGK Ngữ văn 12, Tài liệu Giáo dục học, Tài liệu 
kỹ năng sống
 1.4. Phương pháp triển khai đề tài: Thực hiện bồi dưỡng phẩm chất đạo 
đức cho học sinh lớp 12 thông qua các buổi học chính, học bồi dưỡng, các giờ tự 
chọn.
 5 những hành động không đẹp mắt, vi phạm phẩm chất đạo đức của một người 
học sinh.
 Từ những lý do trên, việc bồi dưỡng giá trị đạo đức cho học sinh là việc làm 
cần thiết. Đây là nhiệm vụ quan trọng đối với những giáo viên trực tiếp giảng 
dạy môn Ngữ văn. 
 2.3. Nội dung triển khai
 2.3.1. Định hướng chung:
 - Không có một tác phẩm văn học mà giá trị giáo dục thể hiện ngay trên bề 
mặt câu chữ. Ngược lại, nó nằm ở chiều sâu văn bản buộc học sinh rút ra.
 - Thông qua một tác phẩm văn học, dù là tác phẩm thơ hay văn xuôi đều có 
những giá trị giáo dục nhất định. Có tác phẩm chứa nhiều, có tác phẩm chứa ít. 
Vì thế, môn Ngữ văn được xem là bộ môn nghệ thuật khơi gợi tình cảm thẩm 
mỹ, bồi dưỡng và hoàn thiện nhân cách cho học sinh.
 - Muốn phát hiện ra những giá trị đạo đức của tác phẩm cần:
 + Đọc kỹ tác phẩm, đánh dấu lại những đoạn qua trọng về sự diễn biến tâm 
lý, tình cảm, lối ứng xử của nhân vật trữ tình trong tác phẩm.
 + Liên hệ với bản thân, với quy tắc ứng xử hợp lẽ thường trong cuộc sống
 2.3.2. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho học sinh thông qua “Vợ nhặt” 
của Kim Lân
 2.3.2.1. Luôn mỉm cười, lạc quan trong cuộc sống
 Cuộc sống đến với mỗi chúng ta đều không hề đơn giản và dễ dàng. Nó là sự 
tổng hòa của tất cả những cung bậc cảm xúc: hạnh phúc, đau đớn, vui vẻ, mệt 
mỏi... Bi kịch, sự vấp ngã trước khó khăn là điều không thể tránh khỏi. Thế 
nhưng, có nhiều cá nhân chán nản, mệt mỏi khi phải đối mặt với nó. Không 
thiếu những cá nhân bi quan, sống buông thả, đánh mất mình. Tuy vậy, Tràng 
trong “Vợ nhặt” đứng trước cuộc sống đầy khó khăn, chết chóc nhưng vẫn luôn 
lạc quan, tin tưởng vào cuộc sống:
 Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm 
bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở 
khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”.
 “Hắn nghĩ bụng: “Quái sao nó lại buồn thế nhỉ?...Ồ sao nó lại buồn thế 
nhỉ?...” Hắn nhổ vu vơ một bãi nước bọt, tủm tỉm cười một mình.”
 “Ít lâu nay hắn xe thóc Liên đoàn lên tỉnh. Mỗi bận qua cửa nhà kho lại thấy 
mấy chị con gái ngồi vêu ra ở đấy. Hắn đoán họ ngồi đấy nhặt hạt rơi hạt vãi, 
hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Một lần hắn gò lưng kéo cái xe bò thóc 
vào dốc tỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọcTràng ngoái cổ lại vuốt mồ hôi 
trên mặt cười [1].
 Bước 1: Từ đoạn trích trên, giáo viên phân tích để học sinh thấy được hoàn 
cảnh sống vất vả, cực nhọc của Tràng. Tuy vậy, Tràng vẫn không tỏ ra bi quan 
hay chán nản, anh luôn tự tạo cho mình niềm vui và tiếng cười, xóa tan đi những 
mệt mỏi của cuộc sống. Từ đó, giáo viên mở rộng ý nhằm giáo dục học sinh về 
lòng lạc quan vượt qua những chông gai, thử thách. Khắc sâu vào tầm nhận thức 
của học sinh thông qua hành động: luôn học cách mỉm cười trong mọi hoàn 
cảnh. Đó là một tấm gương về nghị lực sống mà mỗi chúng ta cần học tập.
 7 Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng 
chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Sau không biết nghĩ thế nào, hắn 
tặc lưỡi một cái: 
 - Chậc, kệ!
 Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng 
vài thứ lặt vặt rồi ra hàng cơm đánh một bữa no nê rồi cùng đẩy xe bò về. [1]
 Bước 1: Từ đoạn trích trên, giáo viên cần phân tích, chỉ rõ cho học sinh thấy 
được khát khao một cuộc sống thực sự của Tràng. Bên bờ vực của “cái chết”, 
Tràng vẫn nghĩ về “cái sống”. Hai tiếng “Chậc, kệ!” không phải đơn giản là sự 
liều lĩnh trong những phút giây thiếu suy nghĩ. Mà đó chính là sự đánh cược sự 
sống với cuộc đời để có được hạnh phúc trọn vẹn. Điều quan trọng là giáo viên 
cần chỉ rõ cho học sinh thấy được cuộc sống tăm tối, đói nghèocủa con người 
Việt Nam trước cách mạng. Đồng thời làm bật lên ước mơ, khát khao hướng tới 
một cuộc sống có ý nghĩa, thoát khỏi sự tăm tối của cuộc sống hiện tại. Đây là 
khát vọng chính đáng của Tràng nói riêng và con người nói chung. Thông qua 
đó, giáo viên định hướng ước mơ trong tương lai cho học sinh bởi sống không 
có ước mơ, không khát khao vươn lên thì cuộc sống sẽ trở nên vô nghĩa. 
 Bước 2: Giáo viên đưa thêm một số dẫn chứng ngoài cuộc sống như:
 + Những con người tật nguyền họ vẫn học tập, mơ ước và khát khao cuộc 
sống có ý nghĩa
 + Những con người có số phận bất hạnh, mồ côi...họ vẫn đang nuôi ước mơ 
và quyết tâm thực hiện....
 Từ đó, giáo viên định hướng cho học sinh về ý nghĩa của cuộc sống. Khi bản 
thân các em đang đứng trước ngưỡng cửa tương lai thì đây chính là lúc để các 
em đến gần hơn với ước mơ và khát vọng của mình. Đồng thời, động viên, khích 
lệ để các em vượt qua tự ti, mặc cảm về bản thân trong cuộc sống.
 2.3.2.4. Yêu thương, trân trọng, đùm bọc lẫn nhau
 “Vợ nhặt” mở ra không khí đầy tang thương đau đớn. Ở đó, ta bắt gặp những 
mảnh đời bất hạnh đang chống chọi với cơn đói, cơn khát. Đó là hình ảnh những 
người dân trong xóm ngụ cư – một thứ cỏ rác của hương thôn bị người đời coi 
khinh. Tiêu biểu hơn cả là thị. Con người ấy không tên họ rõ ràng, không nhà 
cửa, người thân...cái đói đã làm lu mờ tất cả. Thị đại diện cho một lớp người với 
hoàn cảnh éo le, bất hạnh:
 Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra 
thị là ai. Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, 
trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.
 Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng 
vài thứ lặt vặt rồi ra hàng cơm đánh một bữa no nê rồi cùng đẩy xe bò về. [1]
 Bước 1: Từ đoạn trích trên, giáo viên cần chỉ rõ cho học sinh thấy được 
hoàn cảnh đáng thương của thị. Không còn là một cô nàng hoạt bát, nhanh nhảu, 
sắc sảo như lần đầu tiên Tràng gặp, mà đó là một nạn nhân khốn khổ của cái đói. 
Đồng thời, giáo viên khắc sâu hành động Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc. Đó 
không phải là sự dại khờ mà xuất phát từ tình thương của người cùng cảnh ngộ. 
Anh Tràng không thể từ chối khi thấy bộ dạng đói rách của thị trong khi hoàn 
 9 Bước 1: Giáo viên chỉ ra cho học sinh thấy được hành động, thái độ ngượng 
ngùng của thị khi cùng Tràng về nhà:
 Người đàn bà như cũng biết xung quanh người ta đang nhìn dồn cả về phía 
mình, thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia.
 ...Người đàn bà theo lời hắn ngồi xuống mép giường. Cả hai bỗng cùng 
ngượng nghịu. [1]
 Bước 2: Giáo viên chỉ rõ đoạn văn miêu tả sự thay đổi của thị sau đêm tân 
hôn:
 Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng. 
Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã 
thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín 
nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạchNgoài vườn 
người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn đang quét lại 
cái sân.
 Người đàn bà lẳng lặng đi vào trong bếp. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, 
rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực. [1]
 Bước 3: Thông qua những đoạn trích tiêu biểu trong tác phẩm, giáo viên 
nhấn mạnh vẻ đẹp nữ tính: đó là biết điều, ý tứ, giàu lòng tự trọng, biết giữ gìn 
nhân cách, đảm đang, tháo vát, chăm chỉ. Đó cũng là phẩm chất tốt đẹp của 
người phụ nữ Việt Nam. Từ đó, hình thành trong tâm hồn các em ý thức sâu sắc 
về giá trị của bản thân, đặc biệt là học sinh nữ. Định hướng cho các em những 
hành động và cách cư xử đúng mực, giữ gìn vẻ đẹp thiên tính nữ.
 Bước 4: Giáo viên mở rộng thêm một số biểu hiện không phù hợp, không 
đẹp mắt, đi ngược lại với chuẩn mực chung của xã hội ở nữ giới hiện nay. Đặc 
biệt là tình trạng gây bè kéo cánh, bạo lực học đường, văng tục chửi bậy, yêu 
theo phong trào, đánh mất bản thân, sống đua đòiở một bộ phận học sinh nữ. 
Giúp các em nhận thức được thiên tính nữ, có ý thức giữ gìn vẻ đẹp nhân cách 
của chính mình.
 2.3.2.6. Lễ phép, có văn hóa trong giao tiếp và ứng xử
 Bước 1: Thị vốn là một người phụ nữ ý tứ, biết điều nhưng chính cái đói đã 
khiến thị lu mờ tất cả, thị trở nên chua chát, đanh đá, cong cớn với lối giao tiếp 
không mấy lịch sự trong lần thứ hai gặp Tràng:
 Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở cổng chợ tỉnh thì 
thị ở đâu sầm sập chạy đến. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói:
 - Điêu! Người thế mà điêu! [1]
 Bước 2: Chỉ ra sự thay đổi trong giao tiếp và ứng xử của thị với bà cụ Tứ:
 Bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà. Đến giữa sân bà lão đứng sững 
lại, bà lão càng ngạc nhiên hơn. Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy 
nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao 
lại chào mình bằng u?
 Bà lão lập cập bước vào. Người đần bà tưởng bà lão già cả, thị cất tiếng 
chào lần nữa:
 - U đã về ạ! [1]
 Bước 3: Giáo viên cần chỉ rõ lối giao tiếp của thị khi gặp Tràng ở dốc tỉnh. 
Thị cong cơn, đanh đá, không hỏi han trước sau. Tất cả đều xuất phát từ cái đói 
 11

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_hieu_qua_boi_duong_pham_chat.doc