Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng trong giờ đọc hiểu bài Đất nước trích Trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm qua phương pháp tích hợp liên môn
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng trong giờ đọc hiểu bài Đất nước trích Trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm qua phương pháp tích hợp liên môn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng trong giờ đọc hiểu bài Đất nước trích Trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm qua phương pháp tích hợp liên môn
BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. LỜI GIỚI THIỆU: Hiện nay, do sự tiến bộ của kỹ thuật và sự phát triển nhanh của khoa học, một mặt xã hội đề ra những yêu cầu ngày càng cao đối với thế hệ trẻ, mặt khác cũng làm cho hứng thú và nguyện vọng của thế hệ trẻ ngày càng phát triển. Vì thế học sinh có điều kện để tìm hiểu tường tận để thỏa mãn hứng thú và nguyện vọng của mình thông qua mạng internet, sách tham khảo, học thêm, các lớp đào tạo kỹ năng sống, các lớp hướng nghiệpDo đó đòi hỏi ở người thầy phải có tầm hiểu biết rộng, người thầy phải thường xuyên theo dõi những xu hướng, những định hướng của môn mình phụ trách. Đồng thời phải tự học, tự bồi dưỡng để cung cấp cho học sinh những kiến thức chuẩn xác và liên hệ được nhiều kiến thức cũ và mới, giữa bộ môn khoa học này với bộ môn khoa học khác. Thực hiện Nghị quyết 29 - NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các cơ sở giáo dục khuyến khích giáo viên dạy học theo hướng “tích hợp liên môn”. Quan điểm tích hợp cần được hiểu toàn diện và phải được quán triệt trong toàn bộ môn học từ Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu trong quá trình dạy học; quán triệt trong mọi yếu tố của học tập; tích hợp trong chương trình; tích hợp trong sách giáo khoa; tích hợp trong phương pháp dạy học của giáo viên và trong quá trình học tập của học sinh. Nội dung tích hợp liên môn cũng nằm trong lộ trình đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá ở các trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực của học sinh. Dạy học liên môn trong môn Ngữ văn học là giúp người học nhận thức được tác phẩm văn học trong môi trường văn hóa - lịch sử sản sinh ra nó hay trong môi trường diễn xướng của nó; thấy được mối quan hệ mật thiết giữa văn học và lịch sử phát sinh; văn học với các hình thái ý thức xã hội khác đồng thời khắc phục được tính tản mạn trong kiến thức văn hóa của học sinh. Thực tế cho thấy, những khác biệt về kinh nghiệm sống, văn hóa, giáo dục, cách dùng ngôn ngữ, thể loại khiến cho tầm đón nhận của học sinh so với tầm đón nhận tác phẩm yêu cầu có độ vênh khá lớn. Học sinh không hiểu do đó không thể yêu thích những tác phẩm văn học dù các em vẫn biết đó là những tác phẩm đỉnh cao của văn học dân tộc.Vì vậy, việc đưa học sinh về môi trường văn hóa của thời đại, kéo tầm đón nhận của các em về trùng khít với yêu cầu tầm đón nhận của tác phẩm là việc cần thiết cả về mặt khoa học lẫn giáo dục. Vì thế, trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy việc tham khảo tài liệu từ các lĩnh vực khác có vai trò quan trọng trong việc khôi phục và tái hiện hình ảnh quá khứ, tài liệu tham khảo giúp người học xây dựng được tầm “đón nhận phù hợp với văn bản” Ngoài ra, việc sử dụng tài liệu liên môn còn giúp người học có thêm cơ sở để hiểu rõ quy luật phát triển của văn học, hình thành củng cố nhiều phương 7.1.1. Khái niệm tích hợp, tích hợp liên môn và một số nội dung liên quan * Khái niệm tích hợp Tích hợp (integration) có nghĩa là sự hợp nhất, sự hoà nhập, sự kết hợp. Nội hàm khoa học khái niệm tích hợp có thể hiểu một cách khái quát là sự hợp nhất hay là sự nhất thể hoá đưa tới một đối tượng mới như là một thể thống nhất trên những nét bản chất nhất của các thành phần đối tượng, chứ không phải là một phép cộng giản đơn những thuộc tính của các thành phần ấy. Hiểu như vậy, tích hợp có hai tính chất cơ bản, liên hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau, là tính liên kết và tính toàn vẹn. Liên kết phải tạo thành một thực thể toàn vẹn, không còn sự phân chia giữa các thành phần kết hợp. Tính toàn vẹn dựa trên sự thống nhất nội tại các thành phần liên kết, chứ không phải sự sắp đặt các thành phần bên cạnh nhau. Không thể gọi là tích hợp nếu các tri thức, kĩ năng chỉ được thụ đắc, tác động một cách riêng rẽ, không có sự liên kết, phối hợp với nhau trong lĩnh hội nội dung hay giải quyết một vấn đề, tình huống. Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống, ở những mức độ khác nhau, các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học khác nhau hoặc các hợp phần của bộ môn thành một nội dung thống nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn học hoặc các hợp phần của bộ môn đó. Khái niệm tích hợp cũng được hiểu là “sự phối hợp các tri thức gần gũi, có quan hệ mật thiết với nhau trong thực tiễn, để chúng hỗ trợ và tác động vào nhau, phối hợp với nhau nhằm tạo nên kết quả tổng hợp nhanh chóng và vững chắc.” Trên thế giới, tích hợp đã trở thành một trào lưu sư phạm hiện đại, nó góp phần hình thành ở học sinh những năng lực rõ ràng, có dự tính những hoạt động tích hợp, trong đó học sinh học cách sử dụng phối hợp kiến thức, kỹ năng; có khả năng huy động hiệu quả những kiến thức và năng lực của mình vào giải quyết các tình huống cụ thể. Những năm gần đây, nhiều phương pháp dạy học mới đã và đang được nghiên cứu, áp dụng ở trường Trung học phổ thông như: dạy học tích cực, phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp tạo ô chữ, phương pháp sử dụng công nghệ thông tin trong dạy họcTất cả đêu nhằm tích cực hóa hoạt động của học sinh và phát triển tư duy sáng tạo chủ động cho học sinh. Như vậy dạy học tích hợp có nghĩa là đưa những nội dung giáo dục có liên quan vào quá trình dạy học các môn học như: tích hợp giáo dục đạo đức, lối sống; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, an toàn giao thông... * Khái niệm tích hợp liên môn. Tích hợp liên môn là phải xác định các nội dung kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học để dạy học, tránh việc học sinh phải học lại nhiều lần 3 + Một là, trong quá trình dạy học môn học của mình, giáo viên vẫn thường xuyên phải dạy những kiến thức có liên quan đến các môn học khác và vì vậy đã có sự am hiểu về những kiến thức liên môn đó; + Hai là, với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, vai trò của giáo viên không còn là người truyền thụ kiến thức mà là người tổ chức, kiểm tra, định hướng hoạt động học của học sinh cả ở trong và ngoài lớp học; Vì vậy, giáo viên các bộ môn liên quan có điều kiện và chủ động hơn trong sự phối hợp, hỗ trợ nhau trong dạy học. 7.1.2. Quan điểm vận dụng tích hợp và tích hợp liên môn vào dạy học Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông. Việc vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy học Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông chẳng những dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập trong các phân môn Văn học, Tiếng Việt, Làm văn cũng như các bộ phận tri thức khác như hiểu biết lịch sử xã hội, văn hoá nghệ thuật... mà còn xuất phát từ đòi hỏi thực tế là cần phải khắc phục, xoá bỏ lối dạy học theo kiểu khép kín, tách biệt thế giới nhà trường và thế giới cuộc sống, cô lập giữa những kiến thức và kĩ năng vốn có liên hệ, bổ sung cho nhau, tách rời kiến thức với các tình huống có ý nghĩa, những tình huống cụ thể mà học sinh sẽ gặp sau này. Nói khác đi, đó là lối dạy học khép kín “trong nội bộ phân môn”, biệt lập các bộ phận Văn học, Tiếng Việt và Làm văn vốn có quan hệ gần gũi về bản chất, nội dung và kĩ năng cũng như mục tiêu, đủ cho phép phối hợp, liên kết nhằm tạo ra những đóng góp bổ sung cho nhau cả về lí luận và thực tiễn, đem lại kết quả tổng hợp và vững chắc trong việc giải quyết những tình huống tích hợp hoặc những vấn đề thuộc từng phân môn. Việc dạy học tích hợp liên môn trong môn Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông không chỉ chú trọng nội dung kiến thức tích hợp mà cần thiết phải xây dựng một hệ thống việc làm, thao tác tương ứng nhằm tổ chức, dẫn dắt học sinh từng bước thực hiện để chiếm lĩnh đối tượng học tập, nội dung môn học, đồng thời hình thành và phát triển năng lực, kĩ năng tích hợp, tránh áp đặt một cách làm duy nhất. Giờ học Ngữ văn theo quan điểm tích hợp phải là một giờ học hoạt động phức hợp đòi hỏi sự tích hợp các kĩ năng, năng lực liên môn để giải quyết nội dung tích hợp, chứ không phải sự tác động các hoạt động, kĩ năng riêng rẽ lên một nội dung riêng rẽ thuộc nội bộ phân môn Tích hợp kiến thức Địa lý, Lịch sử, Giáo dục công dân, Tiếng Việt, Làm văn, kĩ năng sống trong giờ đọc hiểu văn bản thực sự đã khơi dậy cho học sinh niềm đam mê, ham hiểu biết đối với tác phẩm văn học. 7.1.3. Thực trạng dạy và học môn Ngữ văn tại Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc Thực trạng của việc dạy và học môn Ngữ văn trong Trung tâm Giáo dục thường xuyên hiện còn những tồn tại là nội dung bài học chưa thực sự hứng thú 5 sảng khoái. Nếu nhồi nhét kiến thức một cách cưỡng bức thì hiệu quả giáo dục khó có thể như mong muốn, bởi để tiêu hóa được kiến thức thì phải “thưởng thức chung” một cách ngon lành. Để học sinh chủ động, tích cực, sáng tạo trong học tập thì tất yếu phải đổi mới phương pháp giảng dạy, mà dạy học theo hướng tích hợp liên môn là một phương pháp tiêu biểu nhằm tạo ra hứng thú cho giờ học nhất là giờ học môn Ngữ văn. Bảng điều tra mức độ hứng thú học tập của học sinh về môn Ngữ văn so với các môn khoa học tự nhiên ở lớp 11, 12 năm học 2017-2018 khi giáo viên chưa dạy tích hợp liên môn: Húng thú học tập Không hứng thú học tập Lớp Sĩ số Số lượng % Số lượng % Lớp 11 24 9 37,5 15 62,5 Lớp 12 22 10 45,5 12 54,5 Bảng chất lượng bài kiểm tra 15 phút khi chưa sử dụng phương pháp tích hợp liên môn: Giỏi Khá Tb Yếu Sĩ Lớp 12 Số Số Số Số số % % % % lượng lượng lượng lượng Nhóm 1 12 0 0 1 8,4 7 58,3 4 33,3 Nhóm 2 13 0 0 1 7,7 8 61,5 4 30,8 Khi được hỏi tại sao các em không húng thú học tập và kết quả kiểm tra nội dung kiến thức không cao, thì câu trả lời chủ yếu tập trung vào các lý do sau: - Do nội dung bài học môn Ngữ văn dài dòng, không muốn học thuộc lòng - Không có hứng thú học - Do chưa thấy được giá tri tư tưởng thực sự của tác phẩm; - Do học sinh ít quan tâm đến nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử; - Do học sinh chủ yếu thi đại học khối A,B nên không thích học văn; - Do phương pháp giảng dạy của giáo viên. Như vậy, trong số các nguyên nhân khiến cho học sinh không hứng thú học và kết quả kiểm tra thấp có liên quan đến giáo viên, đó chính là phương pháp giảng dạy. Nếu không thay đổi phương pháp dạy học, học sinh sẽ cảm thấy 7 sông Hương sẽ giúp học sinh tiếp cận tác phẩm một cách hào hứng và toàn diện hơn. * Tích hợp Ngữ văn với các ngành nghệ thuật khác Hội họa, kiến trúc, sân khấu, điêu khắc, ca nhạc, phim ảnhlà kết quả sáng tạo của xã hội loài người. Một hình ảnh nghệ thuật giúp người học sử dụng trí tưởng tượng của mình tập trung vào những điểm quan trọng. Giáo viên bổ sung hình ảnh tư liệu thuộc các lĩnh vực nói trên vào bài giảng để học sinh có vốn văn hóa rộng khi tiếp nhận. Bản thân văn học có mối quan hệ mật thiết với các loại hình nghệ thuật khác. Học sinh tiếp nhận kiến thức văn học qua tranh ảnh đồ dùng trực quan kết hợp với bài viết sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo sẽ nhớ lâu và hứng thú hơn. Để việc khai thác nguồn tư liệu này có hiệu quả, phát huy tính tích cực của học sinh, giáo viên cần nghiên cứu kỹ mục tiêu và nội dung của từng tư liệu trong bài học tư liệu thuyết minh hình ảnh. Ngày nay, với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, giáo viên trình chiếu kênh hình sẽ có ưu thế hơn vì học sinh được trực quan với hình ảnh rõ, kích thước lớn, màu sắc sinh động và ấn tượng hơn. Ví dụ 1: Khi dạy phần mở đầu văn bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh, giáo viên trình chiếu đoạn phim tài liệu Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập (phần 1) Ví dụ 2: Khi nói về nạn đói khủng khiếp trong lịch sử ngoài tích hợp kiến thức lịch sử giáo viên trình chiếu đoạn phim tài liệu có những hình ảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945. * Tích hợp Ngữ văn – Giáo dục công dân: Với đặc trưng môn học, môn Ngữ văn có rất nhiều lợi thế trong việc giáo dục cho học sinh những phẩm chất cao đẹp như tình yêu tổ quốc, quê hương, gia đình; tấm lòng nhân đạo yêu thương con người, đức hy sinh, lòng dũng cảm; lý tưởng sống cao đẹp nhân văn Giáo dục qua môn văn là giáo dục bằng hình tượng nghệ thuật nên không gò bó, khô khan mà mềm mại, tự nhiên và thấm thía. Hình thức này có thể thực hiện trong hầu hết các giờ dạy văn và đem lại hiệu quả rất lớn. * Tích hợp Ngữ văn – Mỹ thuật: Khi dạy học một tác phẩm văn chương giáo viên có thể cho học sinh vẽ tranh minh họa một cảnh hay một nhân vật mà học sinh yêu thích, sau đó các em đặt tiêu đề cho bức tranh và nêu lý do vì sao lại chọn nội dung ấy để tái hiện bằng tranh vẽ. Cũng có thể cho học sinh nhận xét bức tranh trong sách giáo khoa, so sánh với bức tranh của mình Hình thức này có thể vận dụng khi dạy 9
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_chat_luong_trong_gio_doc_hieu.doc