Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học toán ở trường trung học phổ thông
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học toán ở trường trung học phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học toán ở trường trung học phổ thông
MỤC LỤC Mục Chủ đề Trang 1 MỞ ĐẦU 2 2 NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 3 2.1 Cơ sở lí luận của vấn đề 3 2.2 Thực trạng của vấn đề 3 2.3 Giải pháp và tổ chức thực hiện 3 2.3.1 Dạy học các khái niệm toán có liên hệ với các nhà toán học 3 2.3.2 Tạo ra những điều thú vị khi dạy các ví dụ về toán 8 2.3.3 Tạo sự hứng thú khi dạy các bài tập toán 9 2.3.4 Cho học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của toán học 14 2.4 Hiệu quả của sáng kiến 19 3 KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 19 4 TÀI LIỆU THAM KHẢO 20 1 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận của Sáng kiến kinh nghiệm Môn Toán là môn đặc thù có nhiều kiến thức trừu tượng, hàn lâm. Điều này đòi hỏi học sinh phải có một trình độ và khả năng tư duy nhất định. Song nó mâu thuẫn một điều là nhiều học sinh kiến thức con yếu, chưa nói là kém. Do đó, việc giáo viên truyền tải kiến thức toán, cho dù giáo viên có giảng rất hay và tâm huyết thì nhiều khi cũng chỉ mang tính chất truyền thụ một chiều, học sinh khó tiếp cận. Vì vậy, trong giờ giảng toán, ngoài những kiến thức toán ra, chúng ta cần đan xen những câu chuyện, các hình ảnh, những bài thơ, câu hát mang đậm chất văn nghệ. Qua đó sẽ góp phần tạo nên một gờ học hứng thú và làm cho học sinh say mê hơn với môn Toán. 2.2. Thực trạng trạng vấn đề Qua giảng dạy nhiều năm, tôi nhận thấy ngoài những học sinh có trình độ trung bình khá trở lên thì còn lại là đối tượng chưa thích học toán. Các em quên hết kiến thức cũ. Ngay cả những kiến thức cơ bản như các phép toán về số nguyên, phân số, căn thức, đa thức nhiều em không còn nhớ. Điều đó rất khó cho việc giáo viên truyền tải kiến thức mới. Chưa kể do tác động của môi trường mà nhiều em học sinh ham chơi, mải mê điện thoại, trong lớp không chú ý học hay quậy pháDo đó, nó không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng mà còn làm cho môn Toán các em cảm thấy nhàm chán. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để tạo ra sự húng thú cho học sinh đối với môn Toán 2.3.1. Dạy học các khái niệm toán có liên hệ với các nhà toán học Các định nghĩa, công thức, kí hiệu thuật ngữ toán học đều do các nhà toán học đưa ra. Chúng ta không quên liên hệ với các nhà toán học có tên tuổi từng đưa ra các khái niệm. Chẳng hạn học về lượng giác, hàm số liên hệ với Ơ-le, vec tơ liên hệ với Ha-min-tơn, tập hợp liên hệ với Can-to. 3 vụ vận dụng lí thuyết của mình vào một vấn đề thực tiễn nóng bỏng của Hà Nội lúc đó. Cuối chương trình lớp 10, đầu chương trình lớp 11, học sinh được học Lượng giác. Đây là mảnh đất màu mỡ để chúng ta liên hệ thực tế, kể những câu chuyện lí thú về các nhà toán học. Chính Ơ-le đóng vai trò to lớn trong sự phát triển lượng giác, đưa nó thành một bộ môn hiện đại như ngày nay. Hình 2. Chân dung Lê-ô-na Ơ-le Vào đầu lớp 10, học sinh mới vào phải đối mặt với một khái niệm khá trừu tượng đó là vectơ. Chúng ta không quên đó chính là những câu chuyện về các nhà toán học, các hình ảnh thực tế. Mặt khác khái niệm này hình thành cũng là do nhờ sự phát triển của vật lí. Chính vật lí là tiền đề tạo điều kiện cho các nhà toán học phải nghiên cứu các khái niệm toán học mới. Ha-min-tơn chính là người đưa ra khái niệm vectơ. Về Xác suất – Thống kê, đây là lĩnh vực khá hay để chúng ta liên hệ thực tế. Hầu hết các lĩnh vực kể cả khoa học về xã hội nhân văn đều cần đến xác suất – thống kê. Nói như một nhà toán học: “Trong một tương lai không xa, những kiến thức về lí thuyết thống kê không thể thiếu được đối với học vấn phổ thông, giống như khả năng biết đọc, biết viết vậy”. Giáo viên có thể đưa ra rất nhiều ứng dụng thiết thực về bài toán thống kê áp dụng trong đất nước ta. Điển hình là bài toán lập bảng bắn pháo binh và bài toán thiết kế quần áo may sẵn cho bộ đội. Khi dạy học chương Tích phân, đây là lĩnh vực khó làm sao để học sinh thấy hứng thú, tiếp cận được những lí thuyết trừu tượng. Theo tôi, ngoài việc tìm phương pháp dạy học dễ hiểu, ôn tập những kiến thức cũ, tăng cường ví dụ, chúng ta cần đưa thêm những câu chuyện để giúp học sinh tăng thêm hứng thú. Chẳng hạn câu chuyện những nhà bác học phát minh ra các phép tính tích phân. Từ thời cổ đại, nhà toán học Ác-si-met đã sử dụng phương pháp vét cạn để 5 người ta cũng tìm thấy, chẳng hạn định lí này đã được ghi lại trong một cuốn sách của người Trung Hoa cổ đại. Liên quan đến hình chóp đều, giáo viên có thể giới thiệu về Kim Tự Tháp Kê-ốp. Về chủ đề này có khá nhiều câu chuyện lí thú để kể cho học sinh nghe. Chắc chắn học sinh sẽ cảm thấy hứng thú. Về Hình học giải tích, giáo viên có thể đưa ra những câu chuyện về người sáng lập ra bộ môn này, đó chính là nhà bác học Đề-các. Rồi còn chuyện giặc Mĩ sử dụng hệ tọa độ cầu để ném bom phá hoại miền Bắc nước ta. Trong chương Số phức, giáo viên có thể làm tăng thêm độ hấp dẫn của nó qua rất nhiều câu chuyện. Tuy đến muộn, song ứng dụng của số phức đóng vai trò quan trọng cho đất nước trong cả thời chiến và thời bình. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, người ta ứng dụng số phức trong việc nổ mìn mở đường ra mặt trận. Ở thời bình, số phức lại được ứng dụng vào việc tính toán dòng chảy để xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình, hồ Trị An. Ngoài ra, nó còn được áp dụng vào việc nạo vét kênh Nhà Lê. Nói về đóng góp cho lí thuyết số phức cũng như người đặt nền móng cho nền toán học cách mạng nước nhà, chúng ta không thể quên công ơn to lớn của giáo sư Lê Văn Thiêm. Ông đã từng bỏ cơ ngơi tráng lệ ở thành phố Pa-ri theo Bác Hồ về nước để xây dựng một nền toán học nước nhà còn non trẻ. Hình 5. Chân dung giáo sư Lê Văn Thiêm Khi học công thức lượng giác, học sinh phải nhớ một khối lượng đồ sộ các công thức. Làm sao để cho học sinh có thể nhớ các công thức một cách chính xác, dễ dàng, nhanh chóng là điều cần suy nghĩ của những giáo viên dạy toán. Ta có thể có nhiều phương pháp, song một phương pháp đơn giản là ta có thể dựa vào các câu thơ, câu vè để nhớ. Chẳng hạn để nhớ công nhân ba, giáo viên có thể đọc ngay bài thơ: 7 tổng các số hạng dài dằng dặc với hi vọng học sinh loay hoay với các phép tính thì mình được nghỉ ngơi. Không ngờ vừa ghi đề xong thì Gau-xơ có đáp số. Cậu bé Kác-lơ Gau-xơ vừa giơ bảng lên thì bị thầy giáo quát: - Kác-lơ em tính sai rồi. Không thể nhanh thế được! Rồi thầy giáo cũng chẳng thèm để ý đến kết quả nữa. Đợi tất cả các đứa trẻ làm xong thì thầy giáo mới lật cái bảng cuối cùng của Gau-xơ thì mới thấy rằng đáp số giống các bạn. Không biết Gau-xơ khi đó tính thế nào nhưng đây là mầm mống cho lí thuyết về cấp số cộng. Qua câu chuyện này, học sinh càng thán phục một học sinh 7 tuổi mà có thể giải một bài toán mà bây giờ các em học lớp 11 mới giải được. Từ đó khích động tinh thần ham học, yêu thích toán và yêu thích khoa học. Cũng liên quan về cấp số, ta có thể kể một câu chuyện về cấp số nhân. Câu chuyện về cấp số nhân: 1, 2, 4, 8, 64. Đó là câu chuyện về nhà vua Ấn Độ ban thưởng cho người phát minh ra bàn cờ vua. Tương truyền bàn cờ vua được người Ấn Độ phát minh cách đây hơn 2000 năm. Nhà vua rất thích thú bèn ban cho người phát minh ra nó rất nhiều ngọc ngà, châu báu. Song ông ta không nhận một cái gì cả mà chỉ xin một ít thóc rải đủ 64 ô trong bàn cờ vua như sau: ô thứ nhất 1 hạt, ô thứ hai 2 hạt, ô thứ ba 4 hạt và ô sau gấp đôi ô trước cho đến ô thứ 64. Nhà vua rất ngạc nhiên nhưng sau khi tính toán thì toàn bộ số thóc của nhà vua không đủ ban tặng. Người ta tính rằng số thóc đó mà rải trên mặt đất thì được một lớp dày 9 mm. Con số đó là: 18 446 744 073 709 551 615 hạt thóc. Một điều dễ thấy là nghe xong câu chuyện này học sinh cảm thấy hấp dẫn vô cùng. 2.3.3.Tạo sự hứng thú khi dạy các bài tập toán Trong khi dạy bài tập toán, giáo viên có nhiều cơ hội lồng ghép những kiến thức liên quan đến đời sống thức, có tác dụng giáo dục rất lớn đối với học sinh. Chẳng hạn những bài tập về tập hợp, chúng ta có thể đưa ra rất nhiều bài toán thực tế đòi hỏi phải sử dụng lí thuyết tập hợp mới giải quyết được. Khi dạy hàm số bậc hai thì hàng loạt hình ảnh giáo viên có thể minh họa. Tôi có thể đưa ra một vài hình ảnh gợi ý như bể phun nước ở Tuần Châu, cầu treo Bình Thành, cổng Ác-xơ ở Mĩ, cầu A-ra-bi-đa ở Bồ Đào Nha. Những hình ảnh này giáo viên có thể nói rõ hình dạng nó như thế nào và xuất xứ của nó. Từ đó, học sinh hiểu ra một điều rằng, toán học bắt nguồn từ thực tế cuộc sống. 9 Tảng sáng mặt trời mới rạng đông Mấy chị rủ nhau đi hái bòng. Mỗi người năm quả thừa năm quả Mỗi người sáu quả một người không. Hỏi người phát rẫy bên đồi núi Mấy chị ra đi mấy quả bòng ? Bài 3: Đàn vịt Có một đàn vịt Bơi ở ao sen Nếu mà đậu lên Hai con một lá Thì thừa một lá, Nếu mà đậu cả Mỗi lá một con Thì thừa một con. Hỏi có mấy con vịt, mấy lá sen ? Bài 4: Chợ phiên Anh đi chợ phiên Em gửi quan tiền Mua cam, mua quýt Không nhiều thì ít Mua lấy một trăm. Cam ba đồng một Quýt một đồng ba 11 Bài 8: Cô gái lấy chồng Cô gái làng bên đi lấy chồng Họ hàng kéo đến thật là đông. Năm người một cỗ thừa ba cỗ Ba người một cỗ chín người không. Hỏi có bao nhiêu người, bao nhiêu cỗ ? Bài 9: Em bé tắm sông Có đàn em bé tắm trên sông Ống nước làm phao nổi bồng bềnh. Hai chú một phao thừa bảy chiếc Hai phao một chú bốn người không. Hỏi người thạo tính cho hỏi thử Mấy chú, mấy phao, tính cho thông ? Những bài thơ trên, ta có thể lồng ghép dạy vào phần bài tập của bài “Hệ phương trình bậc nhất nhiều ẩn”, “Phương trình bậc nhất và bậc hai một ẩn” hoặc Ôn tập chương III trong chương trình Đại số 10. Ngoài những bài toán bằng thơ, giáo viên có thể đưa thêm những bài toán vui, đặc biệt là những bài toán có liên hệ với thực tế, mang tính thời sự cao. Qua đó, chúng ta có thể lồng ghép giáo dục học sinh ở nhiều khía cạnh. Trong chương này, tận dụng thời gian, giáo viên có thể giới thiệu thêm đôi nét về lịch sử phương trình đại số. Từ 2000 năm trước Công nguyên, người Ai Cập đã biết giải phương trình bậc nhất, người Ba-bi-lon đã biết giải phương trình bậc hai. Đến thể kỉ VII, lí thuyết phương trình bậc nhất bậc hai mới được các nhà toán học Ấn Độ phát triển. Tới thế kỉ XVI, các nhà toán học Ý mới tìm được công thức để giải các phương trình bậc ba, bậc bốn. Sang đầu thế kỉ XIX, nhà toán học A-ben, người Na Uy mới chứng minh được rằng không thể giải được phương trình tổng quát bậc lớn hơn bốn bằng phương tiện thuần túy đại số. Cuối cùng, Ga-loa mới giải quyết trọn vẹn vấn đề về giải các phương trình. Lí thuyết này mang tên ông. 13 Nét diễm kiều trong tọa độ không gian Đôi trái tim theo nhịp độ tuần hoàn Còn tất cả chỉ theo chiều hư ảo Bao mơ ước phải chi là nghịch đảo Bóng thời gian quy chiếu xuống bản đồ Nghiệm số tìm giờ chỉ có hư vô Đường hội tụ, hay phân kì giải tích. Anh chờ đợi một lời em giải thích Qua môi trường có vòng chuẩn chính phương Hệ số đo cường độ tình thương Định lí đảo tìm ra vì giao hoán. Nếu mai đây tương quan đành gián đoạn Tính không ra phương chính của cấp thang Anh ra đi theo hàm số ẩn tang Em trọn vẹn thành phương trình vô nghiệm. Bài thơ này, ta có thể lồng ghép giảng dạy ở bài “Giá trị lượng giác của góc (cung) lượng giác. Bài 3: Tình yêu Giải tích Tôi vẫn nhớ khi em ngồi đối diện Anh mắt nhìn bằng góc độ đường cong Lòng xôn xao cho quỹ đạo đi vòng Hồn tôi để giao em đường tiếp tuyến. Em lướt nhẹ cho đùa vui nghịch biến Gặp một lần nơi tiếp điểm mà thôi 15
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_tao_hung_thu_cho_hoc.doc