Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao công tác hướng nghiệp cho học sinh THPT tại Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Vĩnh Phúc
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao công tác hướng nghiệp cho học sinh THPT tại Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Vĩnh Phúc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao công tác hướng nghiệp cho học sinh THPT tại Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Vĩnh Phúc

BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu Giáo dục hướng nghiệp với bản chất là hệ thống các biện pháp tiến hành trong và ngoài nhà trường để giúp học sinh phổ thông có kiến thức về nghề nghiệp và có khả năng lựa chọn về nghề nghiệp trên cơ sở kết hợp nguyện vọng, sở trường của cá nhân với nhu cầu sử dụng lao động của xã hội, đóng vai trò quan trọng trong quá trình đạt được mục tiêu đó. Nhiệm vụ của giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông là giáo dục thái độ lao động và ý thức đúng đắn với nghề nghiệp; cho học sinh làm quen với một số nghề phổ biến trong xã hội và các nghề truyền thống của địa phương; tìm hiểu năng khiếu, khuynh hướng nghề nghiệp của tường học sinh để khuyến khích, hướng dẫn và bồi dưỡng khả năng nghề nghiệp thích hợp nhất; động viên học sinh đi vào những nghề, những nơi đang cần. Hiện nay, do sự thay đổi cơ cấu kinh tế theo cơ chế thị trường, hầu hết mọi nghề trong xã hội đều thay đổi và có nhiều nghề mới xuất hiện, muốn chọn một nghề không còn đơn giản như trước đây mà cần phải tìm hiểu kỹ những yêu cầu về năng lực, tính cách, trình độ học vấn mà nghề đòi hỏi và phải đối chiếu với khả năng của mình xem có phù hợp hay không, muốn vậy trước khi chọn ta phải định hướng nghề. Chọn cho mình một nghề cũng có nghĩa là chọn cho mình một tương lai. Việc chọn nghề thực sự quan trọng và vô cùng cần thiết. Chọn nghề sai lầm dẫn đến mất thời gian và tốn kém kinh phí. Công tác giáo dục hướng nghiệp cho học sinh nói chung và học sinh trung học phổ thông (THPT) nói riêng đang được Đảng, Nhà nước và cả xã hội quan tâm. Nghị quyết TW8 về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục – đào tạo nhấn mạnh việc: “Đẩy mạnh phân luồng sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông”, “đảm bảo cho học sinh có trình độ trung học cơ sở (hết lớp 9) có tri thức phổ thông nền tảng, đáp ứng phân luồng mạnh sau trung học cơ sở, trung học phổ thông phải tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng”. Điều 3 của Chỉ thị số 33-2003/CT – BGD & ĐT ngày 23/7/2003 cũng đã chỉ rõ “Nghiêm túc triển khai thực hiện sinh hoạt hướng nghiệp ở các trường THCS, THPT và trung tâm KTTH, theo tài liệu hướng dẫn của Bộ GD &ĐT, giúp học sinh, đặc biệt là học sinh cuối cấp hiểu về thế giới nghề nghiệp, thị trường lao động và đánh giá năng lực bản thân, hướng dẫn học sinh lựa chọn nghề hoặc lựa chọn trường học, ngành học phù hợp với năng lực cá nhân và yêu cầu của xây dựng đất nước”. 1 lượng, chưa đáp ứng về chất lượng. Nguyên nhân khách quan là hệ thống giáo dục nghề nghiệp và thị trường lao động chưa phát triển lành mạnh; cơ chế, chính sách về thực hiện giáo dục hướng nghiệp và công tác phân luồng học sinh sau trung học còn bất cập, chậm đổi mới; nhận thức về tầm quan trọng của giáo dục hướng nghiệp và công tác phân luồng học sinh sau trung học của các cơ quan, ban ngành, đoàn thể, cộng đồng xã hội và gia đình học sinh chưa được chú ý. Từ thực tiễn giáo dục hiện nay cũng như thực tế công tác hướng nghiệp tại các trường THPT nói chung và tại Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng, chúng tôi nhận thấy cần thiết phải nâng cao hơn nữa công tác hướng nghiệp bằng những biện pháp mang tính chất thực tiễn và cụ thể. Chính vì vậy, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu về “Một số biện pháp nâng cao công tác hướng nghiệp cho học sinh THPT tại Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Vĩnh Phúc” 2. Tên sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao công tác hướng nghiệp cho học sinh THPT tại Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Vĩnh Phúc. 3. Tác giả sáng kiến: - Họ và tên: Trần Thị Phương Huyền - Địa chỉ: Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc - Số điện thoại: 0913913984 Email: Tranphuonghuyen1984@gmail.com 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: - Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc về kinh phí, đầu tư cơ sở vật chất – kĩ thuật trong quá trình viết sáng kiến và thử nghiệm giải pháp 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục hướng nghiệp 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử : 10/2018 7. Mô tả bản chất của sáng kiến 7.1 Nội dung của sáng kiến Chương 1: Lý luận về hướng nghiệp và giáo dục hướng nghiệp 1.1. Hướng nghiệp 1.1.1. Thế nào là hướng nghiệp? Tại Điều 3- Nghị định 75/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật Giáo dục chỉ rõ: “Hướng nghiệp trong giáo dục là hệ thống các biện pháp tiến hành trong và ngoài nhà trường để giúp HS có kiến thức về nghề nghiệp và có khả năng lựa chọn nghề nghiệp trên cơ sở kết hợp nguyện vọng, sở trường của cá nhân với nhu cầu sử dụng lao động của xã hội” 3 cụ quản lý (các chủ trương, chính sách, cơ chế...), phương tiện quản lý (CSVC,trang thiết bị...) nhằm đạt tới mục tiêu giáo dục hướng nghiệp cho học sinh. Các thành phần của hoạt động GDHN: GDHN là hoạt động phức tạp bao gồm nhiều thành phần, chịu tác động của nhiều yếu tố, nằm trong mối quan hệ chặt chẽ giữa cá nhân người được HN với môi trường sống, môi trường lao động, môi trường giáo dục, tác động của thị trường lao động cũng như tác động nhiều mặt của tâm lý xã hội. Theo K.K Platônôv, các thành phần của hoạt động GDHN được sơ đồ hóa thành tam giác HN thể hiện trên sơ đồ sau Sơ đồ 1.11. Sơ đồ tam giác hướng nghiệp của K.K PLATÔNÔV Bộ giáo dục và đào tạo cũng đã ban hành chương trình giáo dục hướng nghiệp cho học sinh THPT, chỉ rõ việc GDHN bao gồm các thành tố sau: Mục tiêu của GDHN ở THPT, học sinh cần đạt được: - Về kiến thức: Hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai; Biết được thông tin cơ bản về việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước và khu vực; về thế giới nghề nghiệp, thị trường lao động, hệ thống giáo dục nghề nghiệp (trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề), CĐ, ĐH ở địa phương và cả nước. - Về kĩ năng: Tự đánh giá được năng lực của bản thân và điều kiện gia đình trong việc định hướng nghề nghiệp tương lai; Tìm kiếm những thông tin về nghề và thông tin cơ sở đào tạo cần thiết cho bản thân trong việc chọn nghề; Định hướng và lựa chọn được nghề nghiệp tương lai. 5 HS làm quen với hoạt động lao động nghề nghiệp, chuẩn bị tích cực cho HS bước vào cuộc sống lao động và định hướng nghề nghiệp cho các em. Hoạt động dạy nghề phổ thông được đưa vào các Trung Tâm KTTH – HN và một số trường phổ thông cấp trung học từ những năm 80 theo phương thức HS tự nguyện đăng kí học, không bắt buộc. Từ khi đổi mới chương trình GD năm 2000, dạy nghề PT được đổi tên thành hoạt động GDHN Phổ thông và được đưa vào kế hoạch dạy học ở lớp 11 THPT với thời lượng 3 tiết/ tuần (105 tiết/ nghề/ năm học). Trong chương trình dạy nghề phổ thông có 11 nghề thuộc các lĩnh vực công nghiệp (4 nghề), nông nghiệp (3 nghề), dịch vụ (3 nghề) và tin học (1 nghề). Mỗi HS được chọn học một nghề theo phương thức bắt buộc. Chương trình hoạt động GDHN phổ thông được xây dựng theo quan điểm: “Chú trọng nguyên tắc kĩ thuật tổng hợp; tăng cường nội dung hướng nghiệp để HS có điều kiện tìm hiểu nghề, làm quen với một nghề cụ thể và góp phần định hướng nghề nghiệp; coi trọng thực hành và đa dạng hóa nội dung các nghề để HS và các trường có điều kiện lựa chọn nghề phù hợp với phương hướng phát triển kinh tế, điều kiện cơ sở vật chất, giáo viên của địa phương và đáp ứng nguyện vọng của HS. Tuy nhiên giáo dục nghề phổ thông còn hạn chế nhất định về chất lượng đào tạo, số lượng ngành nghề còn ít, thiếu các ngành truyền thống và hiện đại nên không tạo được động lực cho học sinh lẫn các bậc phụ huynh. Thông qua hoạt động ngoại khóa nhằm hỗ trợ cho các hoạt động GDHN khác trong việc giới thiệu, tuyên truyền nghề cho HS. Ngoại khóa là hoạt động được tổ chức cho HS học tập ngoài giờ học chính khóa. Hoạt động này được tiến hành theo một kế hoạch nhất định dưới sự tổ chức, hướng dẫn của GV nhằm phát hiện, bồi dưỡng, phát triển hứng thú, năng khiếu và khả năng sáng tạo của HS trong một lĩnh vực nào đó như khoa học, kĩ thuật, nghệ thuật hoặc tin học Qua tham gia hoạt động ngoại khóa, HS có cơ hội để khám phá khả năng, sở thích, các tính và giá trị sống của bản thân. Trong các trường THPT, tùy vào điều kiện và khả năng có thể tổ chức các lớp ngoại khóa về công nghệ ( làm vườn, trồng cây cảnh, điện tử, vẽ kĩ thuật, cơ khí), tin học, nghệ thuật, hoạt động xã hội để cho những HS có xu hướng và năng khiếu trong từng lĩnh vực trên tham gia hoạt động. Việc tổ chức cho HS tham quan các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp, các cơ sở đào tạo nghề tạo điều kiện cho HS được tận mắt quan sát cơ chế vận hành trong sản xuất, thao tác của người lao động và các sản phẩm của quá trình lao động. Nhờ đó, HS hiểu rõ hơn đối tượng lao động cũng như yêu cầu lao động của ngành 7 động có điều kiện được học tập nâng cao dân trí, đào tạo về nghề nghiệp để tham gia có hiệu quả vào thị trường lao động, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH của đất nước. Phân luồng học sinh sau THCS sẽ nâng cao chất lượng giáo dục THPT, đồng thời tạo điều kiện phát triển các trường TCCN, dạy nghề. Hiện nay, cả nước đang tiến hành công tác phổ cập giáo dục THCS, số học sinh sau bậc học THCS là rất lớn, nếu không có phân luồng tốt sẽ dẫn đến quá tải học sinh vào THPT về số lượng, kéo theo khó khăn về cơ sở vật chất, trang thiết bị, về đội ngũ giáo viên Phân luồng trong hệ thống giáo dục chủ yếu: Phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS: Lên THPT; Vào trung cấp chuyên nghiệp; Vào các trường đào tạo nghề sơ cấp, nghề thường xuyên; Học nghề trung cấp; Học tại các trung tâm GDTX; Tham gia vào thị trường lao động. Sau khi tốt nghiệp THPT học sinh phân luồng theo các hướng sau:Đại học, cao đẳng; Trung cấp chuyên nghiệp; Đào tạo nghề (cao đẳng nghề, trung cấp nghề...); Thị trường lao động. 1.3. Đặc điểm của học sinh THPT Học sinh THPT bắt đầu từ 15 – 16 tuổi đến 17 – 18 tuổi. Đó là giai đoạn đầu của tuổi thanh niên hay còn gọi là thời kỳ thanh niên mới lớn. Ở lứa tuổi này các em đã có sự trưởng thành về tư tưởng, tâm lí, là thời kỳ tự xác định về mặt xã hội, tích cực tham gia vào cuộc sống lao động, học tập để chuẩn bị cho tương lai. Đây chính là thời kỳ nhân cách đang trưởng thành tiến tới ổn định. Về thể chất: Ở các em đã có một cơ thể phát triển gần ngang bằng với cơ thể trưởng thành, các chức năng sinh lí cũng đạt được độ phát triển cao. Cơ thể đã dần được hoàn thiện. Thể lực của các em phát triển mạnh giúp cho việc thực hiện các công việc nặng nhọc, các công việc có kỹ thuật tốt hơn. Sự phát triển của não, hệ thần kinh trung ương và các giác quan giúp các em tiếp thu những kiến thức văn hóa, khoa học kỹ thuật và thông tin mới của xã hội rất nhanh. Về tâm lí: Hoạt động nhận thức của học sinh THPT được đặc trưng bởi sự lĩnh hội và tiếp thu những kiến thức phổ thông để chuẩn bị cho lao động hướng nghiệp sau này. Trí nhớ, tư duy và ngôn ngữ phát triển mạnh. Đặc biệt là tư duy phát triển mạnh, bền vững và hiệu quả hơn thể hiện khả năng tư duy lôgic, tư duy lí luận và tư duy trừu tượng. Tự ý thức của học sinh THPT đã phát triển ở mức cao, có liên quan đến nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những thuộc tính tâm lí, đạo đức theo quan điểm sống, ước mơ và hoài bão. Các em quan tâm sâu sắc đến đời sống tâm lí riêng, đến những phẩm chất nhân cách và năng lực của mình. Các em thường đặt mình vào tương lai vì vậy các em thường quan tâm đến cuộc sống sau này, tình yêu, gia đình, và sự lựa chọn bạn đời trong tương lai. Ở học sinh THPT có một số nét ý chí và 9 chưa phát huy hiệu quả, vẫn còn tư tưởng xem nhẹ hoạt động giáo dục hướng nghiệp so với các bộ môn văn hóa. Vấn đề huy động, sử dụng phương tiện, cơ sở vật chất, các nguồn lực cho việc tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp cũng được Ban giám đốc quan tâm nhưng vẫn chưa phát huy được hiệu quả, kết quả huy động nguồn kinh phí dành cho hoạt động này còn hạn chế, việc bố trí thời gian hoạt động giáo dục hướng nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện thực tế của từng trường, nhất là áp lực nặng nề về phân phối chương trình và chất lượng giảng dạy ở các bộ môn văn hóa khác. Thêm vào đó, các điều kiện, trang thiết bị, phương tiện phục vụ hoạt động giáo dục hướng nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học hoạt động giáo dục hướng nghiệp theo yêu cầu chung của Sở, của Ngành. Mạng lưới tư vấn hướng nghiệp rất hạn chế, không có chuyên gia hoặc ít mời chuyên gia nói chuyện thường giao cho GVCN hoặc tổ chức Đoàn thanh niên nên việc tư vấn không có chiều sâu, không bài bản, hiệu quả thấp. Như vậy cho thấy, việc thực hiện hoạt động giáo dục Hướng nghiệp thời gian qua Trung tâm còn gặp nhiều khó khăn chưa mang lại hiệu quả cao. Nguyên nhân là thiếu giáo viên Hướng nghiệp chuyên trách và giáo dục Hướng nghiệp chưa có nội dung, chương trình mang tính thực tiễn. Trung tâm mới chỉ quan tâm đền phần hướng dẫn hoàn thiện hồ sơ tuyển sinh mà ít chú trọng đến tư vấn tuyển sinh. Giáo viên làm công tác hướng nghiệp chỉ được tập huấn vài buổi chưa có kỹ năng về Hướng nghiệp, ít hiểu biết về hệ thống trường Đại học, Cao đẳng nhất là những ngành học mới và những dự báo ngành nghề nào phù hợp với nhu cầu của Tỉnh nhà trong tương lai. Bản thân giáo viên của Trung tâm cũng chưa nhận thức rõ vai trò của công tác hướng nghiệp nên còn thờ ơ. Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc hiện có 3 khối lớp với số lượng học sinh gần 100 em. Ở những năm học trước cũng có nhiều em có điểm thi đỗ vào các trường ĐH, CĐ, nhưng đa số các em bỏ và làm tự do. Hiện nay, học sinh của Trung tâm đa phần các em là học sinh học Văn hóa nghệ thuật hoặc thể dục thể thao, một số em có thành tích tập luyện có định hướng theo nghề lâu dài nhưng đa số chưa cho định hướng gì về nghề nghiệp tương lai. Nhiều em có khái niệm mơ hồ về nghề, những phẩm chất, điều kiện của nghề, bản thân các em cũng chưa có sự hứng thú đối với nghề nghiệp nào. 11
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_cong_tac_huo.docx