Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục bảo vệ tài nguyên du lịch qua hoạt động trải nghiệm tại một số di tích, danh thắng ở địa phương cho học sinh lớp 12 trên địa bàn huyện Yên Thành
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục bảo vệ tài nguyên du lịch qua hoạt động trải nghiệm tại một số di tích, danh thắng ở địa phương cho học sinh lớp 12 trên địa bàn huyện Yên Thành", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục bảo vệ tài nguyên du lịch qua hoạt động trải nghiệm tại một số di tích, danh thắng ở địa phương cho học sinh lớp 12 trên địa bàn huyện Yên Thành
SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NGHỆ AN Trường THPT Bắc Yên Thành Đề tài: GIÁO DỤC BẢO VỆ TÀI NGUYÊN DU LỊCH QUA HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM TẠI MỘT SỐ DI TÍCH, DANH THẮNG Ở ĐỊA PHƯƠNG CHO HỌC SINH LỚP 12 TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN YÊN THÀNH Môn: Địa lí Tác giả: Cung Thị Quỳnh Hoa Tổ chuyên môn: Khoa học xã hội Yên Thành - 2020. Số điện thoại: 0965966289 2. Cách thức tổ chức hoạt động trải nghiệm tại các di tích, 23 danh thắng trên quê hương Yên Thành 2.1. Cách thức tổ chức hoạt động trải nghiệm 23 2.2. Các nội dung của hoạt động trải nghiệm 26 2. 3. Giáo án thể nghiệm 35 III. Kết luận 45 3.1. Hiệu quả của đề tài 45 3.2. Khả năng nhân rộng 48 3.3. Những kiến nghị 48 2 mãi mãi trừơng tồn. Tuy nhiên, hầu hết người dân nơi đây chưa thực sự thấy được giá trị của tiềm năng du lịch địa phương mang lại. Đặc biệt, các em học sinh – chủ nhân của quê hương, đất nước cần phải hiểu rõ về tài nguyên du lịch ở địa phương mình để có ý thức, trách nhiệm bảo tồn và phát huy tiềm năng sẵn có, góp phần phát triển kinh tế nơi mình sinh ra và lớn lên. Bản thân mỗi giáo viên Địa lí chúng tôi luôn trăn trở, muốn góp một phần nhỏ bé vào việc giáo dục những truyền thống tốt đẹp, giáo dục ý thức và trách nhiệm giữ gìn và bảo vệ các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh cũng như tạo cho học sinh niềm đam mê khám phá những giá trị tốt đẹp ngay trên quê hương mình. Xuất phát từ những lí do trên, đồng thời ý thức được trách nhiệm của bản thân trong việc nỗ lực tìm hiểu, học tập những định hướng mới trong giáo dục nhằm nâng cao kiến thức chuyên ngành, góp phần nâng cao hiệu quả trong công việc giảng dạy tại trường phổ thông nên tôi quyết định chọn đề tài sáng kiến:“Giáo dục bảo vệ tài nguyên du lịch qua hoạt động trải nghiệm tại một số di tích, danh thắng ở địa phương cho học sinh lớp 12 trên địa bàn huyện Yên Thành”. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu cách thức tổ chức và các nội dung của loại hình hoạt động trải nghiệm tại các di tích văn hóa và danh thắng ở địa phương, đó là thực địa và tham quan. Từ đó khơi dậy hứng thú học tập của học sinh và giáo dục tinh thần, ý thức bảo vệ tài nguyên du lịch của quê hương mình. Góp phần đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực. 1.3. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài được tiến hành nghiên cứu tại cơ sở giáo dục THPT(trung học phổ thông) là trường sở tại và 2 cơ sở trường khác trong huyện, trong lĩnh vực môn Địa lí. Đối tượng áp dụng: Giáo dục bảo vệ tài nguyên du lịch qua hoạt động trải nghiệm thực tế cho học sinh lớp 12 tại một số di tích văn hóa, danh lam thắng cảnh trên quê hương Yên Thành – trên địa bàn các xã thuộc địa phận trường đóng và có học sinh đang theo học tại trường. 1.4. Nhiệm vụ nghiên cứu: Đề tài tập trung làm rõ một số vấn đề sau: - Các di tích, danh thắng ở địa phương có liên quan đến chương trình địa lí THPT - Nghiên cứu và đề xuất một số định hướng giáo dục ý thức bảo vệ tài nguyên du lịch thông qua hoạt động trải nghiệm thực tế tại các di tích văn hóa, lịch sử và danh thắng trên địa bàn huyện Yên Thành. 4 II. NỘI DUNG Chương I: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn 1. Lí luận về dạy học gắn với trải nghiệm 1.1. Một số khái niệm, thuật ngữ cơ bản * Trải nghiệm Từ điển tiếng Việt định nghĩa: Trải có nghĩa là “đã từng qua, từng biết, từng chịu đựng”, còn nghiệm có nghĩa là “kinh qua thực tế nhận thấy điều đó đúng”. Như vậy, trải nghiệm có nghĩa là quá trình chủ thể được trực tiếp tham gia hoạt động và rút ra những kinh nghiệm cho bản thân . Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam “trải nghiệm” được diễn dải theo hai nghĩa. Trải nghiệm theo nghĩa chung nhất “là bất kì một trạng thái có màu sắc xúc cảm nào được chủ thể cảm nhận, trải qua, đọng lại thành bộ phận (cùng với tri thức, ý thức) trong đời sống tâm lí của từng người”. Theo nghĩa hẹp trải nghiệm “ là những tín hiệu bên trong, nhờ đó các sự kiện đang diễn ra đối với cá nhân được ý thức chuyển thành ý kiến cá nhân, góp phần lựa chọn tự giác các động cơ cần thiết, điều chỉnh hành vi của cá nhân”. * Sáng tạo Khái niệm sáng tạo được sử dụng đồng nghĩa với nhiều thuật ngữ khác như: sự sáng tạo, tư duy hay óc sáng tạoCác thuật ngữ này đều có liên quan đến một thuật ngữ gốc Latin “Crear” và mang một nghĩa chung là “sự sản xuất, tạo ra, sinh ra một cái gì đó mà trước đây chưa hề có, chưa tồn tại”. Ngoài ra, sáng tạo cũng được hiểu “là tạo ra những giá trị mới về vật chất hoặc tinh thần. Tìm ra cái mới, cách giải quyết mới, không bị gò bó, phụ thuộc vào cái đã có. Có thể sáng tạo trong bất kì lĩnh vực nào: khoa học, nghệ thuật, sản xuất – kĩ thuật, kinh tế, chính trị v.v” Như vậy, dù quan niệm như thế nào thì sáng tạo chính là việc tạo ra cái mới. Sáng tạo là tiềm năng có ở mọi người bình thường và được huy động trong từng hoàn cảnh sống cụ thể. Mỗi người khi tạo ra cái mới cho cá nhân, thì sáng tạo đó được xem xét trên bình diện cá nhân, còn tạo ra cái mới liên quan đến cả một nền văn hóa thì sáng tạo đó được xét trên bình diện xã hội. * Hoạt động giáo dục, hoạt động dạy học và hoạt động trải nghiệm sáng tạo Theo nghĩa rộng hoạt động giáo dục là “những hoạt động có chủ đích, có kế hoạch hoặc có sự định hướng của nhà giáo dục, được thực hiện thông qua những cách thức phù hợp để chuyển tải nội dung giáo dục tới người học nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục”. Hoạt động giáo dục này bao gồm: hoạt động dạy học và hoạt động giáo dục theo nghĩa hẹp. Hoạt động giáo dục theo nghĩa hẹp được hiểu là những hoạt động có chủ đích, có kế hoạch, do nhà giáo dục định hướng, thiết kế, tổ chức trong và ngoài giờ học, 6 năng lực, từ đó tích luỹ kinh nghiệm riêng cũng như phát huy tiềm năng năng sáng tạo của cá nhân mình”. Các khái niệm này đều khẳng định vai trò định hướng, hướng dẫn của nhà giáo dục (không phải là hoạt động trải nghiệm tự phát). Nhà giáo dục không tổ chức, phân công học sinh một cách trực tiếp mà chỉ hỗ trợ, giám sát. Học sinh được trực tiếp, chủ động tham gia các hoạt động. Phạm vi các chủ đề hay nội dung hoạt động và kết quả đầu ra là năng lực thực tiễn, phẩm chất và tiềm năng sáng tạo; và hoạt động là phương thức cơ bản của sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Tuy vậy, không phải giáo viên nào cũng hướng dẫn học sinh tham gia hoạt động trải nghiệm thành công. Chúng ta cần phải nắm vững đặc trưng (nét khác biệt) của một hoạt động trải nghiệm sáng tạo so với những hoạt động dạy học khác. Đó là việc đặt học sinh trong môi trường học tập đa dạng, học đi đôi với hành, học từ chính hành động của bản thân, học trong nhà trường gắn liền với giải quyết các vấn đề thực tiễn đời sống cộng đồng. Trong hoạt động học tập này, các em vừa là người tham gia,vừa là người kiến thiết, tổ chức hoạt động cho chính mình bằng chính sự trải nghiệm của bản thân. Nói cách khác, khi đặt trong môi trường trải nghiệm và sáng tạo, mỗi học sinh sẽ có điều kiện phát huy tính tích cực, tự chủ của mình. Bởi con người thường bộc lộ tính sáng tạo trong hành vi của mình thông qua các hoạt động. Điều này phù hợp với chủ trương đổi mới chương trình giáo dục và sách giáo khoa theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh hiện nay. Đặc điểm của hoạt động trải nghiệm là học sinh được học tập trong môi trường thực tiễn, trực tiếp tham gia các hoạt động để khám phá, chiếm lĩnh kiến thức. Vì vậy, hoạt động trải nghiệm trong dạy học địa lí được tiến hành ngoài không gian của lớp học có ưu thế và tạo niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. * Tài nguyên du lịch Theo Luật du lịch năm 2005 của Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Tài nguyên du lịch là cơ sở để phát triển ngành du lịch. Đó là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử – văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch. Theo Pirojnik, 1985: “Tài nguyên du lịch là tổng thệ tự nhiên, văn hoá và lịch sử cùng các thành phần của chúng trong việc khôi phục và phát trển thể lực và trí lực của con người, khả năng lao động và sức khoẻ của họ, những tài nguyên này được sử dụng cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp cho việc sản xuất dịch vụ du lịch với nhu cầu thời điểm hiện tại hay tương lai và trong điều kiện kinh tế – kỹ thuật cho phép.” 8 có 375 di tích, danh thắng được xếp hạng gồm 4 di tích Quốc gia đặc biệt, 137 di tích quốc gia và 235 di tích cấp tỉnh. Các di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu như đền Cuông ở Diễn Châu, đền thờ Mai Thúc Loan ở Kim Liên - Nam Đàn, đền Quang Trung ở TP Vinh; Khu di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Nam Đàn, nhà cụ Phan Bội Châu ở Nam Đàn, nhà đồng chí Lê Hồng Phong ở Hưng Nguyên, nhà đồng chí Phan Đăng Lưu ở Yên Thành,Về danh lam thắng cảnh có vườn quốc gia Pù Mát, hang Thấm Ồm, núi Quyết Huyện Yên Thành là một trong sáu tuyến du lịch trọng điểm của tỉnh trên cơ sở tiềm năng và khả năng phát triển du lịch của huyện trước mắt và trong tương lai. Hiện tại, huyện có hệ thống di tích dày đặc (trong đó có 23 di tích được công nhận là di tích quốc gia, 35 di tích xếp hạng cấp tỉnh), là huyện có nhiều di tích được công nhận nhất tỉnh Nghệ An trong đó có những di tích tiêu biểu như : Đình Sừng, đền Đức Hoàng, nhà thờ Hồ Tông Thốc, khu lưu niệm Bác Hồ về thăm Vĩnh Thành, nhà lưu niệm đồng chí Phan Đăng Lưu, chùa Gám, nhà thờ và lèn đá Bảo Nham... Về danh thắng có hồ Vệ Vừng, hồ Tăm Hương, rừng lim Hậu Thành và Lăng Thành... 2.2. Thực trạng chung về dạy học gắn với trải nghiệm ở môn địa lí Bộ môn địa lí ở trường THPT có vai trò quan trọng trong việc cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, khách quan, có hệ thống về tự nhiên, kinh tế, xã hội thế giới và Việt Nam, góp phần bồi dưỡng lòng yêu nước, hiểu biết về các hiện tượng tự nhiên và vấn đề kinh tế xã hội, từ đó hình thành ý thức, tư duy phát triển. Tuy nhiên, thực trạng học địa lí ở trường phổ thông hiện nay vẫn còn nhiều bất cập. Kiến thức địa lí vẫn mang tính chất sách vở nặng nề nên học sinh không mấy hứng thú với môn học này. Hầu hết học sinh đều cảm thấy học địa lí khó nhớ và mau quên. Và đặc biệt, đa số học sinh không hiểu được bản chất của các hiện tượng tự nhiên, kinh tế - xã hội và cũng không coi trọng mảng kiến thức này với lí do đây là “môn phụ”. Những năm gần đây, bộ môn địa lí ở trường phổ thông cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Nghệ An nói riêng đã có nhiều thay đổi tích cực về nội dung, phương pháp dạy học. Nhiều phương pháp dạy học mới được giáo viên tiến hành trong quá trình giảng dạy như: dạy học dự án, thảo luận nhóm, dạy học nêu vấn đềđã mang lại kết quả tốt, giúp học sinh có thể lĩnh hội kiến thức một cách tốt hơn. Phương pháp dạy học trải nghiệm thực tế tại các di tích văn hóa - lịch sử, danh thắng tiêu biểu trong dạy học địa lí ở các trường phổ thông đã và đang được khá nhiều trường THPT trên cả nước cũng như trên địa bàn tỉnh Nghệ An (chủ yếu là những trường ở trung tâm) triển khai và cho thấy hiệu quả thực sự nhìn từ tất cả các góc độ, đặc biệt là từ tinh thần và thái độ học tập của học sinh đối với môn địa lí. 10
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_giao_duc_bao_ve_tai_nguyen_du_lich_qua.docx